Bản án 09/2021/HS-PT-CTN ngày 17/09/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 09/2021/HS-PT-CTN NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 17 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 05/2021/TLPT-HS-CTN ngày 20 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Thị H, Lê Thị Thu L do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2021/HSST ngày 16/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện H, thành phố Đà Nẵng.

* Bị cáo kháng cáo:

1. Nguyễn Thị H (Tên gọi khác: không); Sinh ngày 22/6/2001 tại thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: sinh viên; Nơi cư trú: Thôn C, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn B (sinh năm 1977) và bà Nguyễn Thị X (sinh năm 1973); Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con đầu trong gia đình; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).

2. Lê Thị Thu L (Tên gọi khác: không); Sinh ngày 10/7/2002 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: Thôn G, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Đ (sinh năm 1970) và bà Nguyễn Thị H (sinh năm 1970); Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).

- Bị cáo không có kháng cáo: Lê Thạnh Như A.

- Bị hại: Chị Thái Thị Yến N, sinh ngày 01/11/2006; Nơi cư trú: Thôn C, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng (có mặt tại phiên tòa).

- Đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm: 1983 và ông Thái Bá H, sinh năm: 1977; Cùng nơi cư trú: Thôn C, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng (Bà T có mặt; ông H vắng mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại theo chỉ định: Luật sư Trần Văn Đ thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Do có mâu thuẫn trong việc sử dụng mạng xã hội Facebook từ trước nên vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 01/10/2020, Thái Thị Yến N (sinh ngày 01/11/2006, trú tại thôn C, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng) hẹn gặp Nguyễn Thị H tại quán nước của bà Phan Thị H (sinh năm 1977, trú tại tổ 9, thôn C, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng) trước Trường trung học cơ sở T thuộc thôn C, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng để nói chuyện thì H đồng ý. Sau đó, H nhắn tin rủ Lê Thạnh Như A và H rủ thêm Lê Thị Thu L đến để chứng kiến việc em N xin lỗi H.

Thái Thị Yến N đi cùng với em Trần Thị Bích T (sinh năm: 2004, trú tại thôn H, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng) cũng là người biết, liên quan mâu thuẫn nêu trên đến gặp H.

Tại quán nước, Nguyễn Thị H yêu cầu Thái Thị Yến N xin lỗi mình nhưng N có thái độ phản ứng lại và không chịu xin lỗi nên H bực tức liền dùng tay phải tát nhiều cái vào mặt em N. Lúc này, T xin phép đi học, khi T vừa ra khỏi quán thì Lê Thị Thu L và Lê Thạnh Như A vừa đến. Tại đây, Lê Thạnh Như A liền hỏi H về việc N xin lỗi chưa và H trả lời là chưa. A lớn tiếng hỏi N: “răng mi lì ghê rứa?” rồi A dùng tay tát nhiều cái vào hai bên mặt em N.

Lúc này, Lê Thạnh Như A ngồi bấm điện thoại, Lê Thị Thu L ngồi ăn bánh mỳ xong thì L dùng một tay nắm tóc N, tay còn lại tát nhiều cái vào hai bên mặt em N. Tiếp đó, H ngồi nói chuyện với em N nhưng N không chịu xin lỗi mà nói nguyên nhân mâu thuẫn là do T. Bực tức việc N đỗ lỗi cho T, A dùng tay tát nhiều cái vào hai bên mặt em N, rồi dùng cầm chiếc dép lê màu đen (loại quai xỏ ngón) của mình đang mang cầm trên tay đánh hai cái vào hai bên mặt N và yêu cầu em N quỳ xuống xin lỗi thì N quỳ xuống. A liền dùng chân đạp một cái vào bụng của em N. Lúc này, bà Phan Thị H lên tiếng can ngăn nên em N ngồi lên ghế. Nguyễn Thị H liên lạc với em T thì T quay lại quán. Khi vào quán, T xin lỗi Nguyễn Thị H vì T cũng có liên quan đến mâu thuẫn này. T ngồi nói chuyện với N thì N vẫn đổ lỗi cho T. Thấy vậy, A bực tức liền đi ra ngoài lấy chiếc mũ bảo hiểm bằng nhựa màu trắng của N đang treo trên xe đi vào ngồi đối diện với N, cầm chiếc mũ đánh lên đầu N hai cái rồi đập mũ bảo hiểm xuống nền quán làm mũ bị nứt bể.

Lê Thị Thu L lại chỗ N ngồi và lớn tiếng nộ nạt N, đồng thời L dùng tay tát nhiều cái vào mặt và dùng chân phải đạp vào bụng của N làm N ngã từ trên ghế nhựa xuống nền quán. N ngồi lên lại ghế thì Nguyễn Thị H dùng tay tát nhiều cái vào hai bên mặt N, dùng chân đạp vào bụng N một cái. Khi em N đứng dậy thì L, A xông tới chụp lấy áo sơ mi của em N đang mặc, N chụp lại và ba người giằng co làm đứt 04 nút áo trắng của N. Lúc này, Nguyễn Thị H nói T đưa áo khoác cho N mặc vào.

Đến khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, ông Thái Bá H (sinh năm 1977, là cha ruột của N) không thấy con gái đi học về nên đến trường tìm. Đến quán nước, ông H thấy N cùng những người nêu trên thì có nhắc lại việc lúc trước, ông H đã nói con mình xin lỗi H khi H đến nhà ông H nói chuyện về việc mâu thuẫn, rồi đưa N về. Khi về đến cửa hàng nhôm kính của mình thì ông H thấy mũ bảo hiểm của N bị nứt bể nên hỏi thì N kể sự việc mình bị H, A và L đánh. Bực tức vì con mình bị đánh nên ông H liền quay lại quán nước hỏi ai là người đánh con mình. Ông H dùng tay véo lỗ tai Lê Thạnh Như A một cái, tát vào mặt H một cái. H, L, A giằng co với ông H. Sau đó, ông H trình báo Cơ quan Công an đến làm việc.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 248/TgT ngày 17/11/2020 của Trung tâm Pháp y thành phố Đà Nẵng kết luận: “Thái Thị Yến N bị chấn động não điều trị ổn định. Chấn thương tai trái: Ống tai ngoài sung huyết, màng nhỉ rách ở vị trí 7h, có bầm máu. Hiện tại màng nhỉ còn đọng vảy khô, giảm thính lực tai trái độ II. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 12%. Vật gây thương tích: Tổn thương trên là do ngoại lực tác động trực tiếp, vật tác động phù hợp với vật tày gây ra”.

Tang vật tạm giữ: 01 chiếc mũ bảo hiểm màu trắng bị nứt; 01 áo sơ mi màu trắng dài tay bị đứt 04 nút áo.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 53.000.000 đồng bao gồm: Thuốc men điều trị thương tích, hư hỏng tài sản, tổn thất tinh thần... Các bị cáo đồng ý bồi thường, mỗi bị cáo đã bồi thường số được tiền 6.000.000 đồng. Số tiền còn lại phải bồi thường 35.000.000 đồng, các bên thỏa thuận như sau: bị cáo H phải bồi thường số tiền 15.000.000 đồng, bị cáo L và A mỗi người phải bồi thường 10.000.000 đồng cho bị hại trong thời gian 02 tháng kể từ ngày 08/3/2021. Sau khi nhận 18.000.000 đồng từ các bị cáo, gia đình bị hại đã làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Quá trình chuẩn bị xét xử bị cáo H đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 15.000.000 đồng.

Với nội dung như trên, tại Bản án sơ thẩm số 21/2021/HS-ST ngày 16/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thị H, Lê Thạnh Như A, Lê Thị Thu L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị H 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

- Căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê Thạnh Như A 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

- Căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê Thị Thu L 09 (chín) tháng tù. Thời gian chấp hành phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo bản án.

Ngày 28 và ngày 30/6/2021, bị cáo Nguyễn Thị H có đơn kháng cáo với nội dung mức án Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt là quá nặng, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo để được tiếp tục đi học.

Ngày 28/6/2021, bị cáo Lê Thị Thu L có đơn kháng cáo với nội dung mức án Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt là quá nặng, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát có quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo và hợp lệ.

Về nội dung vụ án: Xét nội dung kháng cáo của bị cáo thì thấy rằng: Bản án sơ thẩm số 21/2021/HS-ST ngày 16/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện H, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội "Cố ý gây thương tích" theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng tội. Bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo nên xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 15 tháng tù, bị cáo Lê Thị Thu L 09 tháng tù là phù hợp. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt như bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Thị H và Lê Thị Thu L có đơn kháng cáo trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Đối với bị cáo Lê Thị Thu L hiện nay đang có thai gần đến kỳ sinh con, việc đi lại khó khăn nên có Đơn đề nghị HĐXX xét xử vắng mặt bị cáo, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, HĐXX xét xử vắng mặt đối với bị cáo L.

[2] Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Thị H, Lê Thị Thu L, cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định: Ngày 01/10/2020, tại thôn C, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng, do có mâu thuẫn trong việc sử dụng mạng xã hội Facebook nên các bị cáo Nguyễn Thị H, Lê Thạnh Như A, Lê Thị Thu L đã có hành vi dùng tay, chân, dép, mũ bảo hiểm đánh, đạp, tát vào người em Thái Thị Yến N (chưa đủ 16 tuổi) gây thương tích cho em N với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 12%. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội "Cố ý gây thương tích" theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Các bị cáo H, L đều kháng cáo về mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt, các bị cáo cho rằng mức hình phạt đối với các bị cáo là quá nặng và đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ. HĐXX xét thấy: Trong vụ án này bị cáo H là người đã khởi xướng, rủ rê bị cáo Lê Thạnh Như A cùng tham gia phạm tội, bị cáo trực tiếp dùng tay đánh nhiều lần vào mặt của người bị hại để buộc người bị hại phải xin lỗi mình. Đối với bị cáo L mặc dù không có mâu thuẫn gì với người bị hại nhưng khi bị cáo A rủ đến gặp người bị hại thì bị cáo tích cực tham gia, có hành vi nạt nộ người bị hại, dùng tay tát nhiều cái vào mặt và dùng chân đạp vào người bị hại. Hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án này là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo; xử phạt bị cáo H 15 tháng tù, xử phạt bị cáo L 9 tháng tù; HĐXX xét thấy là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, vì vậy HĐXX không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[5] Do không chấp nhận kháng cáo nên các bị cáo H và L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 351; điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị H, Lê Thị Thu L và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ: điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 58 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị H 15 (mười lăm) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Căn cứ: điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 58 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Thu L 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Mỗi bị cáo Nguyễn Thị H và Lê Thị Thu L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HS-PT-CTN ngày 17/09/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:09/2021/HS-PT-CTN
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về