Bản án 09/2021/DS-ST ngày 14/01/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 09/2021/DS-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 329/2020/TLST - DS ngày 15 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp Hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 199/2020/QĐXXST - DS ngày 08 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông L, sinh năm 1958 Bà S, sinh năm 1957 Địa chỉ: ấp H, xã T, huyện G, Tiền Giang Bà S ủy quyền ông L tham gia tố tụng.

2. Bị đơn: Ông Q, sinh năm 1966 Bà H, sinh năm 1966 Địa chỉ: ấp N, xã P, huyện G, Tiền Giang Ông L có mặt, ông Q, bà H vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 01 tháng 4 năm 2020 và quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông L, bà S trình bày:

Vào năm 2016 ông, bà có bán thức ăn chăn nuôi gà và gà giống cho ông Q và bà H. Hình thức mua bán là ông Q và bà H mua thức ăn và ghi sổ nợ, sau khi bán gà thì ông Q và bà H sẽ trả tiền thức ăn lại cho ông, bà. Hai bên có lập sổ để theo dõi. Tuy nhiên bán gà xong thì ông Q và bà H không trả đủ tiền thức ăn cho ông, bà. Đến tháng 06/2016 thì ông Q và bà H còn nợ ông, bà số tiền là 30.734.000 đồng. Tháng 12/2015 ông Q và bà H có mua vật tư sửa chữa nhà và nợ với số tiền là 6.550.000 đồng. Ngày 10/10/2017 ông Q và bà H lập “Giấy xác nhận công nợ” và xác nhận còn nợ ông, bà số tiền 38.284.000 đồng. Sau đó ông Q và bà H có trả được 1.000.000 đồng rồi ngưng không thực hiện cho đến nay.

Nay ông, bà yêu cầu ông Q và bà H trả nợ với số tiền vốn là 37.284.000 đồng. Đối với số tiền lãi thì ông, bà rút lại yêu cầu - Tại biên bản hòa giải ngày 19 tháng 11 năm 2020, bị đơn ông Q trình bày:

Trước đây ông và bà H có mua gà con và thức ăn chăn nuôi của bà S và ông L để về chăn nuôi. Khi mua thì ghi sổ nợ đến đợt bán gà thì trả tiền. Do dịch bệnh gà chết nên ông và bà H không trả đủ số tiền cho bà S và ông L. Ông và bà H còn nợ ông L và bà S số tiền vốn là 37.284.000 đồng.

Nay đối với yêu cầu khởi kiện của ông L và bà S thì ông và bà H đồng ý trả cho ông L và bà S số tiền nợ vốn là 37.284.000 đồng, đối với số tiền lãi thì ông và bà H xin không trả do hoàn cảnh khó khăn.

- Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà H biết để tham gia phiên tòa theo quy định nhưng bà H không có mặt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng không cung cấp chứng cứ hoặc có ý kiến bằng văn bản phản hồi về việc bà S, ông L khởi kiện, nên vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1.1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Q, bà H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông Q, bà H là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền: Bà S, ông L yêu cầu ông Q và bà H trả số tiền mua thức ăn chăn nuôi còn nợ, nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại ấp N, xã P, huyện G, tỉnh Tiền Giang, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Ông L và bà S khởi kiện yêu cầu ông Q và bà H trả tiền nợ mua thức ăn chăn nuôi với số tiền là 37.284.000 đồng. Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của ông L và bà S là “Giấy đối chiếu công nợ” do ông L và bà S cung cấp có ông Q và bà H ký tên xác nhận nợ và tại phiên hòa giải, ông Q cũng thừa nhận có mua thức ăn và nợ ông L và bà S số tiền như trên. Có đủ cơ sở xác định giữa ông L và bà S với ông Q và bà H đã xác lập hợp đồng mua bán tài sản theo quy định tại Điều 430 Bộ luật Dân sự.

Theo quy định tại Điều 440 Bộ luật Dân sự thì: “Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy định trong hợp đồng”. Xét thấy ông Q và bà H đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền, do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông L và bà S, buộc ông Q và bà H trả cho ông L và bà S số tiền 37.284.000 đồng.

[2.2] Tại phiên tòa, ông L rút lại yêu cầu khởi kiện đối với số tiền lãi là 13.600.000 đồng. Việc rút yêu cầu của nguyên đơn là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ đối với phần yêu cầu này.

[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[4] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 430, khoản 1 Điều 440 của Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L và bà S. Buộc ông Q và bà H liên đới trả cho ông L và bà S số tiền nợ gốc là 37.284.000 đồng (Ba mươi bảy triệu hai trăm tám mươi bốn nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của ông L và bà S cho đến khi thi hành án xong, ông Q và bà H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông L và bà S đối với yêu cầu trả số tiền lãi 13.600.000 đồng.

3. Về án phí:

Ông Q và bà H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 1.864.200 đồng Ông L và bà S được miễn tiền tạm ứng án phí do là người cao tuổi.

4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/DS-ST ngày 14/01/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:09/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về