Bản án 09/2020/HS-ST ngày 20/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HƯƠNG THUỶ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 20/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 02 năm 2020, tại Hội trường Toà án nhân dân thị xã Hương Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 90/2019/TLST-HS ngày 27/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Đăng Đ (tên gọi khác: không có); sinh ngày 15/9/1992 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: 20/30 kiệt 16 DT, phường AC, thành phố H; nghề nghiệp: Phụ thợ nề; trình độ học vấn: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đăng M, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị Thúy V, sinh năm 1972; có vợ là Đoàn Thị Thu P, sinh năm 1993; con: Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2014;

Tiền án: Không; tiền sự: 01, cụ thể: Ngày 06/3/2018, bị Công an thành phố Huế xử phạt hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Quyết định số: 0002019, chưa chấp hành nộp phạt).

Quá trình nhân thân:

- Ngày 25/3/2010, bị Công an thành phố Huế xử phạt hành chính 350.000 đồng về hành vi đánh nhau (Quyết định số: 16692, đã chấp hành nộp phạt);

- Ngày 04/02/2015, bị Công an thành phố Huế xử phạt hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Quyết định số: 000412, đã chấp hành nộp phạt);

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/9/2019 cho đến nay tại Phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trần Thị Kh, sinh ngày 12/3/1975; địa chỉ: tổ 1, khu vực 1, phường HS, thành phố H. Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn T, sinh ngày 24/4/1986; địa chỉ: Số 152 PBC, phường TA, thành phố H, Vắng mặt.

3. Anh Trần Đăng T, sinh ngày 03/8/1993; địa chỉ: Số 20/30 kiệt 16 DT, phường AC, thành phố H. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Lê Viết D, sinh ngày 13/4/1982; địa chỉ: Tổ 3, phường P, thị xã HT, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 13/9/2019, Trần Đăng Đ đến bến xe phía Bắc, thành phố Huế gặp một đối tượng tên H (không xác định được tên, tuổi, địa chỉ), mua 300.000 đồng ma túy dạng đá và cất dấu trong người để sử dụng (Đ dương tính với chất ma túy).

Khoảng 16 giờ 40 phút ngày 19/9/2019, có một đối tượng nữ tên M (không xác định được tên, tuổi, địa chỉ) gọi điện thoại cho Đ, rủ Đ về nhà nghỉ TN, ở tại tổ 10, phường PB, thị xã HT, tỉnh Thừa Thiên Huế để chơi và sử dụng ma túy (theo lời khai của Đ). Đến 17 giờ, cùng ngày, Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 75F1-467.93 (xe của anh Trần Đăng T) và mang theo số ma túy nói trên về đến nhà nghỉ TN thì bị Công an thị xã Hương Thủy phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng Cơ quan điều tra đã thu giữ gồm:

- 01 (một) gói niêm phong bên trong có 01 (một) gói ni lông chứa tinh thể rắn màu trắng, bên ngoài có 02 (hai) chữ ký ghi họ tên Đặng Vĩnh Thành; 02 (hai) chữ ký ghi họ tên Trần Đăng Đ và 02 (hai) khuôn dấu của Công an phường Phú Bài, được ký hiệu A1.

- 01 (một) xe mô tô biển số 75F1-467.93 - 01 điện thoại di động màu vàng hiệu VERTU Các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại kho vật chứng của Cơ quan Công an thị xã Hương Thủy.

Tại bản Kết luận giám định số: 481/GĐ ngày 21/9/2019, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế, kết luận:

Mẫu tinh thể rắn màu trắng, được đựng trong 01 (một) gói ni lông dán kín, được niêm phong kín bằng giấy trắng và băng keo trong, bên ngoài có 02 (hai) chữ ký ghi họ tên Đặng Vĩnh Thành; 02 (hai) chữ ký ghi họ tên Trần Đăng Đ và 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Công an phường Phú Bài, thị xã Hương Thủy, có khối lượng là 0,2505g (không phẩy hai năm không năm gam) là ma túy, loại Methamphetamine. Tại bản cáo trạng số 05/CT-VKS-HTh ngày 27/12/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Thuỷ đã truy tố bị cáo Trần Đăng Đ về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c, khoản 1, Ðiều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Đăng Đ, xử phạt bị cáo Trần Đăng Đ từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo; tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động màu vàng hiệu VERTU; trả lại 01 (một) xe mô tô biển số 75F1-467.93 cho anh Trần Đăng T.

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2]. Có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 19/9/2019, tại nhà nghỉ TN, ở tại tổ 10, phường PB, thị xã HT, tỉnh Thừa Thiên Huế. Bị cáo Trần Đăng Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 0,2505g (không phẩy hai năm không năm gam), để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Xét thấy hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo Trần Đăng Đ đã thực hiện là đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Thủy đã truy tố bị cáo Trần Đăng Đ về tội:Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi của bị cáo thấy rằng: Bị cáo Trần Đăng Đ là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật, nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu sử dụng, thói đua đòi, ăn chơi của mình nên bị cáo đã phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, trực tiếp ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của con người, sự phát triển của nòi giống và làm tăng tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm nhằm để giáo dục bị cáo và ngăn ngừa chung.

[4]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy: Bị cáo Trần Đăng Đ không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5]. Xét các căn cứ quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo Trần Đăng Đ có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử phạt hành chính nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Đối với các đối tượng tên Hùng, Mon, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra, xử lý.

[7]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) gói niêm phong bên trong có 01 (một) gói ni lông chứa tinh thể rắn màu trắng, bên ngoài có 02 (hai) chữ ký ghi họ tên Đặng Vĩnh Thành;

02 (hai) chữ ký ghi họ tên Trần Đăng Đ và 02 (hai) khuôn dấu của Công an phường Phú Bài, được ký hiệu A1. Đây là ma túy đã tịch thu của bị cáo Đ, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 75F1-467.93 là tài sản của anh Trần Đăng T, anh T cho bị cáo Đ mượn, không biết việc bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho anh Trần Đăng T.

- 01 điện thoại di động màu vàng hiệu VERTU là phương tiện bị cáo Trần Đăng Đ sử dụng để mua ma túy sử dụng nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Vật chứng trên có tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hương Thuỷ có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/02/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Thủy và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hương Thuỷ.

[8]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Đăng Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Đăng Đ; xử phạt:

- Bị cáo Trần Đăng Đ 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong bên trong có 01 (một) gói ni lông chứa tinh thể rắn màu trắng, bên ngoài có 02 (hai) chữ ký ghi họ tên Đặng Vĩnh Thành; 02 (hai) chữ ký ghi họ tên Trần Đăng Đ và 02 (hai) khuôn dấu của Công an phường Phú Bài, được ký hiệu A1.

- Trả lại 01 (một) xe mô tô biển số 75F1-467.93 cho anh Trần Đăng T.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động màu vàng hiệu VERTU (Vật chứng trên có đặc điểm như mô tả trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/02/2020 giữa Cơ quan điều tra Công an thị xã Hương Thủy và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hương Thủy).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tuyên xử: Buộv bị cáo Trần Đăng Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2020/HS-ST ngày 20/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hương Thủy - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về