Bản án 09/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

 BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 19/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19/11/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu; Toà án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2020/TLST - HS ngày 27/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 171/2020/QĐXXST – HS ngày 07 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn L; Tên gọi khác: không; Giới tính: nam. Sinh ngày:15/12/1987 tại xã Diễn K, huyện D, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: thôn 7, xã Diễn K, huyện D, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Họ tên cha: Phạm Văn H, sinh năm 1959; Họ và tên mẹ: Phạm Thị X, sinh năm 1956. Anh chị em ruột: Gia đình bị cáo có 04 anh chị em; Bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Vợ: Thái Thị T; sinh năm 1992;. Con: có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: - Ngày 29/6/2006, bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 18 tháng về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

- Ngày 27/8/2010, bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong hình phạt tù theo giấy chứng nhận số 163 ngày 08/02/2012.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/7/2020 đến nay tại Trại tạm giam công an tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 30/7/2020, Phạm Văn L một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn bạc đen, Biển kiểm soát 36P9-7113 đi lên huyện Yên T, tỉnh Nghệ An để mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực cầu Quán trên Quốc lộ 7B thuộc địa phận huyện Y, tỉnh Nghệ An, L gặp một người phụ nữ tên C (không rõ tên tuổi, địa chỉ), L hỏi C “Chị ơi cho em mượn năm trăm?”, nghĩa là L muốn hỏi C bán cho 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) ma túy. C đồng ý và nói “Đưa tiền đây”. L lấy ra 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) đưa cho C, C cầm lấy tiền rồi bỏ đi. Khoảng 15 phút sau, C quay lại bảo L đến chân cầu Quán lật hòn đá ở gốc cây sanh lên để lấy ma túy. L đi đến vị trí C chỉ, lật hòn đá ở gốc cây sanh lên thì thấy có 01 (Một) gói nilon màu đen, bên trong có chứa ma túy (Heroine). L cầm gói ma túy bỏ vào túi quần phía sau bên phải đang mặc trên người rồi điều khiển chiếc xe máy trên đi về nhà. Khi đi về đến khu vực cánh đồng tại xã Diễn H, huyện D thì L dừng xe lại lấy gói ma túy trên ra sử dụng một phần. Số ma túy còn lại, L chia làm hai gói, mỗi gói được gói bằng giấy kẻ ô ly, sau đó gói chung tất cả vào một bao nilon màu đen để trong túi quần phía sau bên phải của L đang mặc trên người rồi tiếp tục đi về nhà. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, L điều khiển chiếc xe máy trên đem theo số ma túy còn lại đi xuống xã Diễn B, huyện D để tiếp tục sử dụng. Khi đi đến đoạn đường liên xã thuộc xóm Hải Trung, xã Diễn B, huyện D, tỉnh Nghệ An thì bị Tổ công tác Công an xã Diễn Bích, huyện Diễn Châu kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ trong túi quần phía sau bên phải Lưu đang mặc trên người 01 (Một) gói nilon màu đen, bên trong có chứa 02 (Hai) gói giấy kẻ ô ly, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại do Cơ quan CSĐT Công an huyện Diễn Châu lập vào hồi 19 giờ 10 phút ngày 30/7/2020 và bản kết luận giám định số 1119/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 05/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Phạm Văn L gửi tới giám định là ma túy (Heroine) có tổng khối lượng 0,15 gam (Không phẩy mười lăm gam).

Về vật chứng thu giữ:

- 01 (Một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn bạc đen, Biển kiểm soát 36P9-7113 đã qua sử dụng. Qua xác minh, đây là chiếc xe thuộc sở hữu của anh Quách Văn T (sinh năm 1980, trú tại xóm Tân T, xã Cẩm T, huyện C, tỉnh Thanh Hóa). Hiện đang bảo quản tại Kho vật chứng Công an huyện Diễn Châu.

- 01 (một) phong bì thư bưu điện niêm phong theo đúng quy định, bên trong chứa vật chứng còn lại thu giữ của Phạm Văn L. Hiện đang bảo quản tại Kho vật chứng Cơ quan thi hành án Dân sự huyện Diễn Châu.

Tại bản cáo trạng số 173/CT-VKS-HS ngày 27/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu đã truy tố Phạm Văn L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn L mức hình phạt từ 15 đến 18 tháng tù.

* Vật chứng vụ án: Áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu huỷ: Số ma túy còn lại sau khi giám định thu giữ của Phạm Văn L.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 36P9-7113, Lưu khai mượn của chị gái là Phạm Thị H (sinh năm 1982, trú tại thôn 7, xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu) với mục đích dùng để chở hàng. Chị H không biết L dùng chiếc xe trên để mua ma túy nên không có căn cứ để xử lý hình sự đối với chị H. Chiếc xe trên chị H khai mua lại của người đàn ông ở huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa (không làm thủ tục mua bán). Qua xác minh, chủ sở hữu chiếc xe trên là anh Quách Văn T (sinh năm 1980, trú tại xóm Tân T, xã Cẩm T, huyện C, tỉnh Thanh Hóa) hiện không có mặt tại địa phương nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Diễn Châu sẽ xác minh, xử lý sau.

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, không tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Diễn Châu, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều được thực hiện hợp pháp.

[2]. Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng truy tố.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án thì đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 30/7/2020, tại khu vực xóm Hải Trung, xã Diễn B, huyện D, tỉnh Nghệ An, Phạm Văn L đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,15g (Không phẩy mười lăm gam) ma túy (Heroine) để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3]. Về tính chất vụ án; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý; gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, đã 2 lần bị Tòa án các cấp xét xử về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, vì vậy cần xét xử nghiêm minh và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4]. Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có việc làm, không có tài sản nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo. [5]. Về vật chứng:

- Đối với 01 (một) phong bì được niêm phong dán kín theo đúng quy định, bên trong có chứa ma túy còn lại là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 36P9-7113, Lưu khai mượn của chị gái là Phạm Thị H (sinh năm 1982, trú tại thôn 7, xã Diễn K, huyện D) với mục đích dùng để chở hàng. Chị H không biết L dùng chiếc xe trên để mua ma túy nên không có căn cứ để xử lý hình sự đối với chị H. Chiếc xe trên chị H khai mua lại của người đàn ông ở huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa (không làm thủ tục mua bán). Qua xác minh, chủ sở hữu chiếc xe trên là anh Quách Văn T (sinh năm 1980, trú tại xóm Tân Thành, xã Cẩm Tân, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa) hiện không có mặt tại địa phương nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Diễn Châu sẽ xác minh, xử lý sau.

[6]. Trong vụ án này còn có người phụ nữ tên Chín là người bán ma túy cho L (theo lời khai của L). Tuy nhiên, do không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ xác minh xử lý.

[7]. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

- Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

- Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Phạm Văn L 15 ( mười lăm ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo là ngày 30/7/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì được niêm phong dán kín theo đúng quy định, bên trong có chứa ma túy còn lại (Vật chứng hiện đang lưu tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An theo Phiếu nhập kho số ngày 29/10/2020).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Văn L phải chịu 200.000 ( Hai Trăm ngàn đồng ) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 09/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về