Bản án 09/2020/HS-PT ngày 17/02/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản  

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 09/2020/HS-PT NGÀY 17/02/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 

Ngày 17 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 67/2019/TLPT-HS, ngày 26/12/2019 đối với bị cáo Lâm Thị Th do có kháng cáo của bị cáo Lâm Thị Th đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 55/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Bị cáo có kháng cáo: Lâm Thị Th, sinh năm 1976 tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú: ấp L, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ văn hóa: 4/12; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lâm Văn B, sinh năm 1939 và bà Huỳnh Thị D, sinh năm 1939 (chết); Có chồng là Trần Văn T, sinh năm 1972; con có 03 người; Tiền án: Không có; Tiền sự: Không có; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/3/2019 cho đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, do không có kháng cáo, không có kháng nghị và không liên quan đến kháng cáo nên không triệu tập đến phiên tòa phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Từ năm 2011 đến năm 2015 bị cáo Lâm Thị Th đứng ra tổ chức làm đầu thảo hụi và mở nhiều dây hụi với nhiều loại hụi và mệnh giá khác nhau gồm hụi tuần, tháng và hụi mùa, mệnh giá các dây hụi có giá trị từ 300.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Trong quá trình làm đầu thảo hụi, Lâm Thị Th do thiếu hụt tiền tiêu xài cá nhân nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của các hụi viên, bằng cách lợi dụng sự tin tưởng của các hụi viên khi tham gia chơi hụi không lấy danh sách hụi, không trực tiếp đến khui hụi, không kiểm tra tổng số hụi viên tham gia trong dây hụi, bị cáo đã thực hiện hành vi kê khống tên hụi viên và tự ý lấy tên của các hụi viên trong các dây hụi để hốt, nhằm chiếm đoạt tiền của các hụi viên, dần dần không còn khả năng thanh toán đến tháng 11 năm 2015 âm lịch bị cáo Th tuyên bố vỡ hụi. Từ năm 2014 đến năm 2015 có 12 dây hụi mà bị cáo Lâm Thị Th đã tự ý lấy tên các hụi viên để hốt và kê tên khống để hốt hụi chiếm đoạt tổng số tiền là 106.894.000 đồng của các hụi viên cụ thể như sau:

1. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, mở ngày 30/7/2014 (nhằm ngày 04/7/2014 âm lịch), 15 người tham gia có 19 phần hụi. Đến khi vỡ hụi khui được 18 kỳ, hụi viên đóng tổng số tiền là 124.459.000 đồng, trong 18 kỳ kêu hốt, bị cáo Th lấy tên hụi viên Nguyễn Văn Đệ hốt 01 phần ở kỳ thứ 4 được số tiền 13.425.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 5.406.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này bị cáo Th đã tự ý lấy tên hụi viên hốt 01 phần chiếm đoạt số tiền 8.019.000 đồng.

2. Dây hụi tháng 500.000 đồng, mở ngày 27/9/2014 (nhằm ngày 04/9/2014 âm lịch), có 18 người tham gia 20 phần. Trong đó: bị cáo Th kê tên khống “ Bình Ba” tham gia 01 phần. Đến khi vở hụi kui được 15 kỳ thì vở hụi, hụi viên đóng tổng số tiền 89.291.000 đồng, trong 15 kỳ kêu hốt bị cáo Th gian dối hốt 02 phần ở 02 kỳ, cụ thể:

- Bị cáo kêu phần kê tên khống “Bình Ba” hốt 01 phần ở kỳ thứ 1 được số tiền 7.030.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 7.000.000 đồng, chiếm đoạt 30.000 đồng.

- Bị cáo lấy tên hụi viên Nguyễn Thị Thu hốt 01 phần ở kỳ thứ 2 được số tiền 6.440.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 1.863.000 đồng, chiếm đoạt số tiền 4.577.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này bị cáo Th đã gian dối kê tên khống hốt 01 phần và tự ý lấy tên hụi viên hốt 01 phần chiếm đoạt tổng số tiền 4.607.000 đồng.

3. Dây hụi tháng 500.000 đồng, mở ngày 27/9/2014 (nhằm ngày 04/9/2014 âm lịch), có 17 người tham gia 20 phần, bị cáo Th kê tên khống “Bình Ba” và “Cần Lộm” tham gia 02 phần là đủ 20 phần. Hụi giao dịch được 15 kỳ vỡ hụi, hụi viên đóng tổng số tiền 62.092.000 đồng, trong 15 kỳ kêu hốt bị cáo Th gian dối hốt 02 phần ở 02 kỳ, cụ thể:

- Bị cáo kêu phần kê tên khống “Bình Ba” hốt 01 phần ở kỳ thứ 2 được số tiền 7.160.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 6.825.000 đồng, chiếm đoạt 335.000 đồng. - Bị cáo kêu phần kê tên khống “Cần Lộm” hốt 01 phần ở kỳ thứ 4 được số tiền 6.780.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 6.550.000 đồng, chiếm đoạt số tiền 225.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này bị cáo Th đã gian dối kê tên khống hốt 02 phần chiếm đoạt tổng số tiền 560.000 đồng.

4. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, mở ngày 27/9/2014 (nhằm ngày 04/9/2014 âm lịch), có 16 người tham gia 18 phần, bị cáo Th kê tên khống “Bình Ba” tham gia 01 phần là đủ 18 phần. Hụi giao dịch được 15 kỳ vỡ hụi, hụi viên đóng tổng số tiền 89.291.000 đồng, trong 15 kỳ kêu hốt bị cáo Th gian dối hốt 02 phần ở 02 kỳ, cụ thể:

- Bị cáo kêu phần kê tên khống “ Bình Ba” hốt 01 phần ở kỳ thứ 9 được số tiền 14.066.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 11.374.000 đồng, chiếm đoạt 2.692.000 đồng.

- Bị cáo tự ý lấy tên hụi viên Lương Thị Bích L (Bình Ba) hốt 01 phần ở kỳ thứ 13 được số tiền 15.200.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 1.144.000 đồng, chiếm đoạt số tiền 14.056. 000 đồng.

Như vậy, dây hụi này bị cáo Th đã gian dối kê tên khống hốt 01 phần và tự ý lấy tên hụi viên hốt 01 phần, chiếm đoạt tổng số tiền 16.748. 000 đồng.

5. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, mở ngày 17/01/2015 (nhằm ngày 27/11/2014 âm lịch), có 21 người tham gia 27 phần, bị cáo Th kê tên khống “Cần Lộm” tham gia 01 phần là đủ 27 phần. Hụi giao dịch được 12 kỳ vỡ hụi, hụi viên đóng tổng số tiền 148.608.000 đồng, trong 12 kỳ kêu hốt bị cáo Th gian dối hốt 01 phần ở 01 kỳ, cụ thể:

- Bị cáo kêu phần kê tên khống “Cần Lộm” hốt 01 phần ở kỳ thứ 5 được số tiền 18.740.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 9.510.000 đồng, chiếm đoạt 9.230.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này bị cáo Th đã gian dối kê tên khống hốt 01 phần, chiếm đoạt số tiền 9.230. 000 đồng.

6. Dây hụi tháng 3.000.000 đồng, mở ngày 28/02/2015 (nhằm ngày 10/01/2015 âm lịch), có 12 người tham gia 17 phần, bị cáo Th kê tên khống “Cần Lộm” tham gia 01 phần là đủ 17 phần. Hụi giao dịch được 05 kỳ vỡ hụi, hụi viên đóng tổng số tiền 106.135.000 đồng, trong 05 kỳ kêu hốt bị cáo Th gian dối hốt 01 phần ở 01 kỳ, cụ thể:

- Bị cáo kêu phần kê tên khống “Cần Lộm” hốt 01 phần ở kỳ thứ 01 được số tiền 28.800.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 12.000.000 đồng, chiếm đoạt 16.800.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này bị cáo Th đã gian dối kê tên khống hốt 01 phần, chiếm đoạt số tiền 16.800.000 đồng.

7. Dây hụi tháng 300.000 đồng, mở ngày 28/5/2015 (nhằm ngày 11/4/2015 âm lịch), có 27 người tham gia 34 phần. Hụi giao dịch được 29 kỳ vỡ hụi, hụi viên đóng tổng số tiền 129.893.000 đồng, trong 29 kỳ kêu hốt hụi bị cáo Th gian dối hốt 01 phần ở 01 kỳ, cụ thể: lấy tên hụi viên Nguyễn Văn Đệ hốt 01 phần ở kỳ thứ 15 được số tiền 8.070.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 4.122.000 đồng, chiếm đoạt số tiền 3.948. 000 đồng Như vậy, dây hụi này bị cáo Th đã gian dối tự ý lấy tên hụi viên hốt 01 phần, chiếm đoạt số tiền 3.948.000 đồng.

8. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, mở ngày 01/6/2015 (nhằm ngày 15/4/2015 âm lịch), có 16 người tham gia 23 phần, bị cáo Th kê tên khống “Bình Ba, Th” và “Cần Lộm” tham gia 02 phần là đủ 23 phần. Hụi giao dịch được 07 kỳ vỡ hụi, hụi viên đóng tổng số tiền 77.448.000 đồng, trong 07 kỳ kêu hốt bị cáo Th gian dối hốt 01 phần ở 01 kỳ, cụ thể:

- Bị cáo kêu phần kê tên khống “Bình Ba” hốt 01 phần ở kỳ thứ 01 được số tiền 14.300.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 10.048.000 đồng, chiếm đoạt 4.252.000 đồng. Riêng 01 phần hụi khống tên Cần Lộm thì Th chưa kêu hốt.

Như vậy, dây hụi này bị cáo Th đã gian dối kê tên khống hụi viên hốt 01 phần, chiếm đoạt số tiền 4.252.000 đồng.

9. Dây hụi mùa 3.000.000 đồng, mở ngày 04/8/2015 (nhằm ngày 20/6/2015 âm lịch), có 11 người tham gia 14 phần, bị cáo Th kê tên khống “Cần Cần” và “Cần Lộm” tham gia 02 phần là đủ 14 phần. Hụi giao dịch đến kỳ thứ 02 vỡ hụi, hụi viên đóng tổng số tiền 37.240.000 đồng, trong 02 kỳ kêu hốt bị cáo Th gian dối hốt 01 phần ở 01 kỳ, cụ thể:

- Bị cáo kêu phần kê tên khống “Cần Cần” hốt 01 phần ở kỳ thứ 01 được số tiền 20.800.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 5.970.000 đồng, chiếm đoạt 14.830.000 đồng. Riêng 01 phần hụi khống tên Cần Lộm thì Th chưa kêu hốt.

Như vậy, dây hụi này bị cáo Th đã gian dối kê tên khống hụi viên hốt 01 phần, chiếm đoạt số tiền 14.830.000 đồng.

10. Dây hụi mùa 3.000.000 đồng, mở ngày 04/8/2015 (nhằm ngày 20/6/2015 âm lịch), có 10 người tham gia 14 phần, bị cáo Th kê tên khống “Cần” và “Cần Lộm” tham gia 02 phần là đủ 14 phần. Hụi giao dịch được 02 kỳ vỡ hụi, hụi viên đóng tổng số tiền 37.600.000 đồng, trong 02 kỳ kêu hốt bị cáo Th gian dối hốt 01 phần ở 01 kỳ, cụ thể:

- Bị cáo kêu phần kê tên khống “Cần” hốt 01 phần ở kỳ thứ 01 được số tiền 20.800.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 6.000.000 đồng, chiếm đoạt 14.800.000 đồng. Riêng 01 phần hụi khống tên Cần Lộm thì Th chưa kêu hốt.

Như vậy, dây hụi này bị cáo Th đã gian dối kê tên khống hụi viên hốt 01 phần, chiếm đoạt số tiền 14.800.000 đồng.

11. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, mở ngày 25/7/2015 (nhằm ngày 10/6/2015 âm lịch), có 15 người tham gia 22 phần, bị cáo Th kê tên khống “Cần Lộm” tham gia 01 phần là đủ 22 phần. Hụi giao dịch được 05 kỳ vỡ hụi, hụi viên đóng tổng số tiền 55.244.000 đồng, trong 05 kỳ kêu hốt bị cáo Th gian dối hốt 01 phần ở 01 kỳ, cụ thể: - Bị cáo kêu phần kê tên khống “Cần Lộm” hốt 01 phần ở kỳ thứ 04 được số tiền 13.440.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 2.878.000 đồng, chiếm đoạt 10.562.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này bị cáo Th đã gian dối kê tên khống hụi viên hốt 01 phần, chiếm đoạt số tiền 10.562.000 đồng.

12. Dây hụi tuần 300.000 đồng, mở ngày 10/9/2015 (nhằm ngày 28/7/2015 âm lịch), có 17 người tham gia 24 phần, bị cáo Th kê tên khống “Cần” tham gia 01 phần là đủ 24 phần. Hụi giao dịch đến kỳ 14 vỡ hụi, hụi viên đóng tổng số tiền 51.864.240 đồng, trong 14 kỳ kêu hốt bị cáo Th gian dối hốt 01 phần ở 01 kỳ, cụ thể:

- Bị cáo kêu phần kê tên khống “Cần” hốt 01 phần ở kỳ thứ 10 được số tiền 5.756.000 đồng, bị cáo Th đóng lại số tiền 3.178.000 đồng, chiếm đoạt 2.578.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này bị cáo Th đã gian dối kê tên khống hụi viên hốt 01 phần, chiếm đoạt số tiền 2.578.000 đồng.

Ngoài ra, còn 22 dây hụi Cơ quan điều tra đã chứng minh bị cáo Th không có chiếm đoạt tài sản như sau:

1. Dây hụi 500.000 đồng, hụi khui 15 ngày 01 lần, mở ngày 04/9/2015 âm lịch.

2. Dây hụi 500.000 đồng, hụi khui 15 ngày 01 lần, mở ngày 29/6/2015 âm lịch (dây 1).

3. Dây hụi 500.000 đồng, hụi khui 15 ngày 01 lần, mở ngày 29/6/2015 âm lịch (dây 2).

4. Dây hụi mùa 2.000.000 đồng, mở ngày 12/4/2012 âm lịch 5. Dây hụi mùa 2.000.000 đồng, mở ngày 15/01/2013 âm lịch 6. Dây hụi mùa 2.000.000 đồng, mở ngày 20/4/2014 âm lịch 7. Dây hụi mùa 2.000.000 đồng, mở ngày 20/5/2013 âm lịch 8. Dây hụi mùa 2.000.000 đồng, mở ngày 20/9/2011 âm lịch 9. Dây hụi mùa 2.000.000 đồng, mở ngày 20/9/2011 âm lịch 10. Dây hụi mùa 3.000.000 đồng, mở ngày 20/01/2015 âm lịch (dây 2) 11. Dây hụi mùa 5.000.000 đồng, mở ngày 20/9/2014 âm lịch 12. Dây hụi tuần 300.000 đồng, mở ngày11/4/2015 âm lịch (dây 2) 13. Dây hụi tuần 300.000 đồng, mở ngày 28/7/2015 âm lịch (dây 1) 14. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, mở ngày 04/8/2015 âm lịch (dây 1) 15. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, mở ngày 04/9/2014 âm lịch (dây 1) 16. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, mở ngày 10/2/2015 âm lịch (dây 1) 17. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, mở ngày 10/2/2015 âm lịch (dây 2) 18. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, mở ngày 10/6/2015 âm lịch (dây 2) 19. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, mở ngày 15/4/2015 âm lịch (dây 2) 20. Dây hụi tháng 2.000.000 đồng, mở ngày 20/2/2015 âm lịch 21. Dây hụi tháng 3.000.000 đồng, mở ngày 10/01/2015 âm lịch (dây 2) 22. Dây hụi tháng 500.000 đồng, mở ngày 10/2/2015 âm lịch

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 55/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Càng Long đã quyết định:

Căn cứ: Điều 268 và Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ: điểm e khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Nghị quyết số 41/2017/QH 14, ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

1. Tuyên bố bị cáo Lâm Thị Th phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

- Xử phạt bị cáo Lâm Thị Th 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ bị bắt là ngày 13/3/2019.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/11/2019 bị cáo Lâm Thị Th kháng cáo Bản án sơ thẩm xin giảm nhẹ hình phạt cho được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo thừa nhận bị cáo thực hiện hai hành vi là lấy tên hụi viên thật hốt và kê tên hụi viên khống vào các dây hụi nhằm chiếm đoạt tiền của các bị hại, bị cáo cho rằng cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội chiếm đoạt tài sản là đúng với hành vi của bị cáo thực hiện trong vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

- Quan điểm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh: Sau khi phân tích các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và yêu cầu kháng cáo bị cáo Lâm Thị Th cũng như tranh tụng công khai tại phiên tòa hôm nay. Vị kiểm sát viên cho rằng án sơ thẩm xét xử bị cáo Lâm Thị Th về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm e khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 là đúng người đúng tội, đúng quy định pháp luật. Về mức hình phạt án sơ thẩm xử phạt bị cáo Th 03 (ba) năm tù là phù hợp với tính chất vụ án, hành vi và hậu quả của bị cáo gây ra, nhân thân của bị cáo và cũng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã nộp khắc phục toàn bộ hậu quả cho các bị hại với số tiền 106.894.000 đồng, đây là tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt theo mức giảm 06 (sáu) tháng tù cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin lỗi bị hại về hành vi của bị cáo gây ra. Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Lâm Thị Th là trong hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Lâm Thị Th, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Lâm Thị Th thừa nhận tòa bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản án sơ thẩm cụ thể như sau: Từ năm 2014 đến năm 2015 bị cáo làm đầu thảo mở nhiều dây hụi. Trong đó, có 12 dây hụi bị cáo có hành vi gian dối kê khống tên các hụi viên để vào dây hụi và tự ý hốt hụi của các hụi viên nhằm chiếm đoạt tiền của các hụi viên để tiêu xài cá nhân. Lời khai nhận của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với lời khai của các bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có cơ sở, đúng quy định pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã thực hiện cùng lúc hai hành vi là tự ý hốt hụi của các hụi viên có thật trong dây hụi và đưa tên hụi viên khống vào danh dách hụi nhằm mục đích hốt chiếm đoạt tiền của các hụi viên, hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác là biểu hiện xem thường pháp luật, hậu quả gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Án sơ thẩm xét xử bị cáo 03 (ba) năm tù là đã xem xét cân nhắc và đánh giá đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sau khi xét xử sở thẩm và tại phiên tòa hôm nay gia đình bị cáo đã xuất trình biên lai đã nộp đủ số tiền 106.894.000 (một trăm lẽ sáu triệu tám trăm chín mươi bốn ngàn đồng) khắc phục toàn bộ thiệt hại cho các bị hại và đây là tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng nên Hội đồng xét xử nhận thấy đây cũng là tình tiết giảm nhẹ mới, do đó Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, sửa án sơ thẩm. Việc sửa án sơ thẩm là do tình tiết mới không do lỗi của cấp sơ thẩm.

[3] Đề nghị của Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm có phần phù hợp với các tình tiết có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Tuy nhiên qua xem xét bản án sơ thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án. Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong quá trình áp dụng pháp luật cấp sơ thẩm đã có thiếu sót đó là việc bị cáo Lâm Thị Th nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội trong 12 dây hụi mà bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử trong vụ án này, nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng đối với bị cáo theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự đó là phạm tội nhiều lần là thiếu sót, xét thấy việc thiếu sót này không làm thay đổi tội danh cũng như hình phạt mà Tòa án cấp phúc thẩm nhận định nêu trên. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật.

[5] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lâm Thị Th về việc xin giảm nhẹ hình phạt.

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 55/2019/HSST, ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Căn cứ vào điểm e khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Tuyên bố bị cáo Lâm Thị Th phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

- Xử phạt bị cáo Lâm Thị Th 02 (hai) năm 3 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 13/3/2019.

Giao Chi cục Thi hành án dân sự huyện Càng Long tiếp tục quản lý số tiền 106.894.000đ (Một trăm lẽ sáu triệu tám trăm chín mươi bốn ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số: 0009732, ngày 28/11/2019 để đảm bảo thi hành án.

Án phí: Bị cáo Lâm Thị Th không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2020/HS-PT ngày 17/02/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản  

Số hiệu:09/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về