Bản án 09/2020/HS-PT ngày 13/02/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 09/2020/HS-PT NGÀY 13/02/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 13 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 227/2019/TLPT-HS ngày 12 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Khương Viết Q và đồng phạm. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án số 54/2019/HS-ST ngày 01/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hải Dương.

Các bị cáo kháng cáo:

1. Khương Viết Q, sinh năm 1987; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu An Nhân Đ, thị trấn K, huyện T, tỉnh Hải Dương; trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Khương Viết R và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Hoàng Thị Phương M và 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 28 ngày 29/9/2010 của TAND huyện T xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Đánh bạc”. Bản án số 24 ngày 15/8/2013 của TAND huyện T xử phạt 07 tháng tù về tội “Đánh bạc”, đã được xoá án tích. Bị cáo tại ngoại,hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt khi xét xử và vắng mặt khi tuyên án).

2. Dương Văn T, sinh năm 1980; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu An Nhân Đ, thị trấn K, huyện T, tỉnh Hải Dương; trình độ văn hoá: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Dương Văn K và bà Đàm Thị G; có vợ là Phạm Thị L và 03 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 71 ngày 29/12/2015 của TAND huyện T xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc”, đã xoá án tích. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/8/2019 đến ngày 09/8/2019, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt khi xét xử và vắng mặt khi tuyên án).

3. Trần Đình M, sinh năm 1991; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn Vĩnh X, xã Vĩnh Hoà, huyện G, tỉnh Hải Dương; trình độ văn hoá: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Đình T và bà Bùi Thị A; có vợ là Dương Thị Nh và 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 02/3/2011, bị Công an huyện G, tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc (đã nộp phạt ngày 11/3/2011). Bản án số 36 ngày 03/12/2009 của TAND huyện G, tỉnh Hải Dương xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Bản án số 32 ngày 30/8/2011 của TAND huyện G, tỉnh Hải Dương xử phạt 27 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/4/2013 (đã được xoá án tích). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/8/2019 đến ngày 09/8/2019,hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt khi xét xử và vắng mặt khi tuyên án).

4. Phạm Quang N, sinh năm 1984; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn B, xã N, huyện G, tỉnh Hải Dương; trình độ văn hoá: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Quang H và bà Phạm Thị L; có vợ là Bùi Thị Hằ và 01 con sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 73 ngày 31/12/2013 của TAND huyện G, tỉnh Hải Dương xử phạt 07 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng về tội “Đánh bạc”. Bản án số 29 ngày 25/9/2014 của TAND huyện G, tỉnh Hải Dương xử phạt 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/7/2015 (đã được xoá án tích). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/8/2019 đến ngày 09/8/2019, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt).

5. Trần Văn Đ, sinh năm 1985; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu An Nhân T, thị trấn K, huyện T, tỉnh Hải Dương; trình độ văn hoá: 08/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn N (đã chết) và bà Lê Thị Y; có vợ là Đặng Thị U và 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 32 ngày 17/8/2012 của TAND huyện T, tỉnh Hải Dương xử phạt 07 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng về tội “Đánh bạc”. Bản án số 71 ngày 29/12/2015 của TAND huyện T, tỉnh Hải Dương xử phạt 08 tháng tù về tội “Đánh bạc”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/4/2016 (đã được xoá án tích). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/8/2019 đến ngày 09/8/2019, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt khi xét xử và vắng mặt khi tuyên án).

Vụ án còn có 06 bị cáo khác không kháng cáo và bản án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khong 14 giờ 15 phút, ngày 06/8/2019, Khương Viết Q, Lê Văn S, Phạm Quang N, Vũ Đức B và Đỗ Văn Hu lần lượt đến nhà Lê Văn Kh chơi. Tại đây, Q rủ mọi người đánh bạc bằng tiền bằng hình thức xóc đĩa; tất cả đồng ý và bảo Kh cho mượn nhà để đánh bạc. Kh đồng ý, nhưng sau khi đánh bạc xong mỗi người chơi phải nộp cho Kh 300.000 đồng (tiền hồ) và cho mọi người lên phòng tầng hai của gia đình mình để đánh bạc. Tại đây, Q lấy kéo và vỏ bao thuốc lá Vinataba có sẵn trong phòng cắt 04 quân vị hình tròn. S lấy 01 bát sứ, 01 đĩa sứ có sẵn trong phòng đưa cho Q để Q xóc cái (cầm cái). Đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa là: Người cầm cái cho 4 quân vị vào đĩa, úp bát lên và xóc, khi mở bát nếu có hai hoặc bốn quân vị cùng một màu (vàng hoặc trắng) là chẵn, một hoặc ba quân vị cùng một màu (vàng hoặc trắng) là lẻ. Người chơi đặt tiền ở cửa chẵn hoặc cửa lẻ theo sự suy đoán của mình, số tiền đặt cửa là tuỳ ý nhưng thấp nhất là 50.000 đồng. Sau khi mọi người đặt tiền, người cầm cái cho 4 quân vị vào đĩa và úp bát lên xóc cái, nếu mở bát ra là chẵn thì người đặt tiền cửa chẵn sẽ được số tiền bằng số tiền đã đặt, người cửa lẻ bị mất số tiền đã đặt và ngược lại. Người cầm cái lấy tiền của người thua trả cho người thắng, nếu thừa thì được hưởng, nếu thiếu thì phải bù. Các đối tượng Q, H, S, T đánh bạc được một lúc thì lần lượt có Trần Văn Đ, Phạm Văn H, Dương Văn T, Nguyễn Văn Ph, Nguyễn Tuấn A và Trần Đình M đến tham gia. Các đối tượng đánh bạc đến 16 giờ cùng ngày thì bị bắt quả tang. Thu giữ tại chiếu bạc 4.500.000 đồng, 01 bát sứ, 01 đĩa sứ và 04 quân vị hình tròn; Thu giữ trong người các đối tượng:

H 9.100.000 đồng; Đ 400.000 đồng; N 450.000 đồng; M 1.000.000 đồng; Ph 2.000.000 đồng; Tuấn A 900.000 đồng; T 14.500.000 đồng; S 3.600.000 đồng. Q bỏ trốn, đến ngày 09/8/2019 ra đầu thú và tự nguyện nộp 1.100.000 đồng là tiền sử dụng vào việc đánh bạc. Thu giữ của anh Vũ Đức B 500.000 đồng nhưng xác định anh Bkhông sử dụng vào việc đánh bạc.

Theo các bị cáo khai thì số tiền các bị cáo dùng đánh bạc, cụ thể: Qcó 1.200.000 đồng, khi bị bắt còn 1.100.000 đồng; Scó 3.700.000 đồng, khi bị bắt còn 3.600.000 đồng; Hu có 10.000.000 đồng, khi bị bắt còn 9.100.000 đồng; N không mang theo tiền, quá trình chơi có người thắng bạc nên xin được 500.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt đã thua hết; H có 1.450.000 đồng, khi bị bắt còn 450.000 đồng; Tuấn A có 700.000 đồng và được Đ trả nợ 1.000.000 đồng, quá trình đánh bạc cho Đ mượn 400.000 đồng, khi bị bắt còn 900.000 đồng; Ph có 2.200.000 đồng, khi bị bắt còn 2.000.000 đồng; M có 1.300.000 đồng, khi bị bắt còn 1.000.000 đồng; Đ có 1.000.000 đồng trả nợ Tuấn A, sau đó vay lại 400.000 đồng sử dụng đánh bạc, khi bị bắt còn 400.000 đồng trên người; T có 14.750.000 đồng, khi bị bắt còn 14.500.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2019/HS-ST ngày 01/11/2019 của Tòa án nhân dân (TAND) huyện T, tỉnh Hải Dương đã tuyên bố bị cáo Kh phạm tội “Gác bạc”, các bị cáo còn lại phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38, 58 Bộ luật hình sự; phạt: Q 20 tháng tù, M 12 tháng tù; N và Đ mỗi bị cáo 11 tháng tù. Áp dụng thêm điểm u khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự; phạt T 17 tháng tù. Bản án còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05, 11 và 14/11/2019 các bị cáo Trần Đình M, Khương Viết Q, Phạm Quang N, Trần Văn Đ và Dương Văn T kháng cáo xin được hưởng án treo kèm theo các biên lai thể hiện đã nộp tiền phạt và án phí theo quyết định của bản án sơ thẩm tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

Tại phiên tòa các bị cáo trình bày nhận tội như tại phiên tòa sơ thẩm và bổ sung thêm nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Tòa án cấp sơ thẩm phân tích tính chất hành vi, vai trò đồng phạm cùng các tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt tù đối với các bị cáo là phù hợp, các bị cáo đều có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị Tòa án xét xử nên không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của các bị cáo. Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm các bị cáo đã nộp án phí và tiền phạt theo quyết định của bản án sơ thẩm, nên các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Q từ 3 đến 6 tháng tù; T từ 2 đến 5 tháng tù; M, N và Đ giảm cho mỗi bị cáo từ 2 đến 3 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Giai đoạn sơ thẩm, các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) trong việc điều tra, truy tố và xét xử đối với các bị cáo. Tại phiên tòa vắng mặt bị cáo Tưởng nhưng bị cáo Tưởng đã có văn bản xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 290 BLTTHS.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Các bị cáo khai phù hợp với lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng đã được thu giữ. Nên có căn cứ xác định: Khoảng 14 giờ 30 phút đến 16 giờ ngày 06/8/2019, tại gia đình Lê Văn Kh ở khu An Nhân T, thị trấn K, huyện T, tỉnh Hải Dương. Lê Văn Kh đã dùng nhà ở của mình để các bị cáo Khương Viết Q, Đỗ Văn H, Lê Văn S, Dương Văn T, Nguyễn Văn Ph, Phạm Văn H, Phạm Quang N, Trần Đình M, Trần Văn Đ, Nguyễn Tuấn A đánh bạc (với hình thức xóc đĩa) bị bắt quả tang. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 37.550.000 đồng. Hành vi của Kh đã cấu thành tội “Gá bạc”; hành vi của các bị cáo Q, H, S, T, Ph, H, N, M, Đ, Tuấn A đã cấu thành tội “Đánh bạc”. Và Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án bị cáo Kh theo khoản 1 Điều 322 BLHS và kết án các bị cáo còn lại theo khoản 1 Điều 321 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Trong vụ án này bị cáo Q là người đề xuất việc đánh bạc, cắt quân vị, cầm cái và trực tiếp đánh bạc với số tiền 1.200.000 đồng, giữ vai trò chính. T vào đánh bạc sau nhưng sử dụng số tiền 14.750.000 đồng nhiều nhất so với các bị cáo khác. N, M, Đ sử dụng số tiền đánh bạc không lớn so với tổng số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc (37.550.000 đồng). Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo; Bị cáo Q sau khi bỏ trốn đã ra đầu thú; bị cáo T có hành vi phát hiện, tố giác tội phạm có xác nhận của Công an huyện; bị cáo M có thành tích tiêu biểu trong phong trào xây dựng nông thôn mới được UBND xã Vĩnh H tặng giấy khen; các bị cáo N, Đ có bố đẻ là người có công được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến. Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo kháng cáo và nộp kèm theo là biên lai thu án phí và tiền phạt theo quyết định của bản án sơ thẩm thể hiện thái độ ăn năn; HĐXX đánh giá đó là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 BLHS và áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Đối với nội dung kháng cáo xin hưởng án treo: Các bị cáo đều đã từng bị kết án nhưng không phải chịu tình tiết tăng nặng do đã được xóa án tích theo quy định của pháp luật. Nhưng điều đó thể hiện ý thức chấp hành pháp luật không tốt. Do đó cần buộc các bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để chấp hành hình phạt tù mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh đối với loại tội phạm này.

[4] Về án phí: Kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận một phần nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] c quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên cấp phúc thẩm không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật.

Vì lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357; Điều 290 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Khương Viết Q, Dương Văn T, Trần Đình M, Phạm Quang N, Trần Văn Đ. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 54/2019/HS-ST ngày 01/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hải Dương về hình phạt đối với các bị cáo, cụ thể như sau:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38, 58 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Q, M, N, Đ. Áp dụng thêm điểm u khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo T.

Phạt: Khương Viết Q 14 (mười bốn) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Phạt: Dương Văn T 11 (mười một) tháng tù, được trừ đi 03 ngày tạm giữ, còn phải chấp hành 10 (mười) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Phạt: Trần Đình M 06 (sáu) tháng tù, được trừ đi 03 ngày tạm giữ, còn phải chấp hành 05 (năm) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Phạt: Phạm Quang N 06 (sáu) tháng tù, được trừ đi 03 ngày tạm giữ, còn phải chấp hành 05 (năm) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Phạt: Trần Văn Đ 05 (năm) tháng tù, được trừ đi 03 ngày tạm giữ, còn phải chấp hành 04 (bốn) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2020/HS-PT ngày 13/02/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:09/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về