Bản án 09/2020/HS-PT ngày 10/01/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 09/2020/HS-PT NGÀY 10/01/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 10 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 241/2019/TLPT- HS ngày 19 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Võ Văn S. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 168/2019/HS-ST ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã T.

Họ và tên bị cáo có kháng cáo:

Võ Văn S, sinh năm 1991 tại tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Đội X, thôn M, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nơi tạm trú: Khu phố Y, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn Trung và bà Mai Thị Hiến; có vợ là Phạm Thị Hương Giang và có 02 người con (sinh năm 2012 và năm 2014); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 11/5/2019 đến ngày 17/5/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

Ngoài ra, còn có 07 bị cáo, 01 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Văn S, Chu Văn T1, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Văn H1, Đỗ Trọng H2, Trịnh Đình N, Hà Văn T3, Phạm Văn T4 có mối quan hệ là bạn.

Khoảng 07 giờ ngày 11/5/2019, H2, Nam, H1, T2, T1, T4, S và T3 lần lượt đến quán cà phê của bà Trịnh Thị H3 tại tổ X, ấp T, xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương để uống nước. Tại đây, S rủ T1, T2, H1, H2, N, T3, T4 đánh bạc thắng thua bằng tiền với hình thức “cào dùa 03 lá”, tất cả đồng ý. S mua của bà H3 01 bộ bài tây loại 52 lá. Khi đánh bạc, người tham gia chia làm 08 tụ, mỗi ván đặt cược 50.000 đồng, người nào lớn nút nhất sẽ thắng 400.000 đồng. Đến khoảng 10 giờ 15 phút ngày 11/5/2019, Công an xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương nhận được tin báo của quần chúng nhân dân nên tiến hành kiểm tra và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với S, T1, T2, H1, H2, N, T3, T4 và thu giữ tại vị trí ngồi đánh bạc số tiền 6.700.000 đồng, 01 bộ bài tây loại 52 lá đã qua sử dụng.

Công an xã T tiến hành thu giữ vật chứng và các tài sản có liên quan gồm:

400.000 đồng của Hà Văn T3; 600.000 đồng cùng 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy màu đen của Trịnh Đình N; 01 điện thoại di động hiệu GiGi màu hồng của Nguyễn Văn T2; 2.400.000 đồng cùng 01 điện thoại di động hiệu Samsung J2 màu vàng của Chu Văn T1; 100.000 đồng của Nguyễn Văn H1:

3.180.000 đồng cùng 01 điện thoại di động hiệu Oppo F7 màu đen, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 ví da màu nâu của Võ Văn S; 01 điện thoại di động hiệu Samsung A7 màu đen của Đỗ Trọng H2; 01 bộ ghế đá gồm 01 mặt bàn ghế đá màu xanh, 02 ghế đá màu xanh, 01 chân ghế đá màu xanh và 02 ghế nhựa màu xanh của Trịnh Thị H3.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận:

- Võ Văn S khai: Bị cáo rủ N, T4, T3, H2, T1, H1, T2 đánh bạc và sử dụng số tiền 4.180.000 đồng để đánh bạc. Bị cáo nói bà Trịnh Thị H3 lấy bộ bài tây 52 lá để các bị cáo đánh bạc. Khi công an vào kiểm tra và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang bị cáo thắng được 1.500.000 đồng bị cáo bỏ tại vị trí đánh bạc số tiền này cùng số tiền 1.000.000 đồng. Số tiền còn lại 3.180.000 đồng, bị cáo để trên người và bị thu giữ.

- Chu Văn T1 khai: Bị cáo sử dụng số tiền 2.850.000 đồng để đánh bạc. Khi công an vào kiểm tra và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, bị cáo không thắng không thua, bị cáo bỏ tại vị trí đánh bạc số tiền 450.000 đồng. Số tiền còn lại 2.400.000 đồng, bị cáo để trên người và bị thu giữ.

- Nguyễn Văn T2 khai: Bị cáo mang theo số tiền 1.250.000 đồng để đánh bạc. Khi công an vào kiểm tra và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, bị cáo thua 700.000 đồng. Số tiền còn lại 550.000 đồng, bị cáo bỏ tại vị trí đánh bạc và bị thu giữ.

- Nguyễn Văn H1 khai: Bị cáo mang theo số tiền 1.250.000 đồng và sử dụng 1.150.000 đồng để đánh bạc. Khi công an vào kiểm tra và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, bị cáo không thắng không thua. Toàn bộ số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc, bị cáo bỏ tại vị trí đánh bạc. Số tiền 100.000 nghìn đồng, bị cáo không sử dụng vào mục đích đánh bạc nên để trên người và bị thu giữ.

- Đỗ Trọng H2 khai: Bị cáo mang theo số tiền 2.500.000 đồng và sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc. Khi công an vào kiểm tra và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, bị cáo thua 200.000 đồng. Số tiền còn lại 800.000 đồng, bị cáo bỏ tại vị trí đánh bạc và bị thu giữ.

- Trịnh Đình N khai: Bị cáo mang theo số tiền 1.500.000 đồng và sử dụng 900.000 đồng để đánh bạc. Khi công an vào kiểm tra và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, bị cáo thua 200.000 đồng, toàn bộ số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc bị cáo bỏ tại vị trí đánh bạc. Số tiền 600.000 đồng bị cáo không sử dụng vào mục đích đánh bạc để trên người và bị thu giữ.

- Hà Văn T3 khai: Bị cáo sử dụng số tiền 850.000 đồng để đánh bạc. Khi công an vào kiểm tra và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, bị cáo thua 400.000 đồng, bị cáo bỏ tại vị trí đánh bạc số tiền 50.000 đồng. Số tiền còn lại 400.000 đồng, bị cáo để trên người và bị thu giữ.

- Phạm Văn T4 khai: Bị cáo mang theo số tiền 500.000 đồng để đánh bạc. Khi công an vào kiểm tra và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, bị cáo không thắng không thua, toàn bộ số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc bị cáo bỏ tại vị trí đánh bạc và bị thu giữ.

Tổng số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 12.680.000 đồng, trong đó số tiền thu giữ tại vị trí các bị cáo ngồi đánh bạc là 6.700.000 đồng, số tiền thu giữ trên người các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 5.980.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 168/2019/HS-ST ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã T đã QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Văn S phạm tội “Đánh bạc”. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Võ Văn S 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 11/5/2019 đến ngày 17/5/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Chu Văn T1 30.000.000 đồng, Đỗ Trọng H2 30.000.000 đồng, Trịnh Đình N 30.000.000 đồng, Hà Văn T3 30.000.000 đồng, Nguyễn Văn T2 30.000.000 đồng, Nguyễn Văn H1 30.000.000 đồng, Phạm Văn T4 40.000.000 đồng cùng về tội “Đánh bạc”; tuyên về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 08/11/2019, bị cáo Võ Văn S có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt, chuyển từ hình phạt tù S hình phạt tiền.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến: Tội danh, điều luật mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, chuyển từ hình phạt tù S hình phạt tiền. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cung cấp thêm T1 tiết bị cáo có ông nội là ông Võ N1 là Liệt sĩ là T1 tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, từng tham gia nghĩa vụ quân sự và được tặng giấy khen, việc không áp dụng hình phạt tù mà chuyển qua hình phạt tiền cũng đủ sức răn đe đối với bị cáo. Do đó, đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử phạt bị cáo từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và giữ nguyên kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, chuyển từ hình phạt tù S hình phạt tiền.

Bị cáo nói lời sau cùng: Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo ở ngoài đi làm, lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Đơn kháng cáo của bị cáo được thực hiện trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai của bị cáo thống nhất với nội dung vụ án đã nêu trên, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở kết luận: Ngày 11/5/2019 tại tổ X, ấp T, xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Võ Văn S đã cùng với các bị cáo Chu Văn T1, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Văn H1, Đỗ Trọng H2, Trịnh Đình N, Hà Văn T3 và Phạm Văn T4 thực hiện hành vi đánh bạc với hình thức bài cào 03 lá thắng thua bằng tiền. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 12.680.000 đồng.

[3]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh của xã hội, ảnh hưởng đến T1 hình trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức, bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả. Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình theo quy định của pháp luật.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4]. Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, chuyển từ hình phạt tù S hình phạt tiền. Tại Tòa án cấp phúc thẩm, bị cáo cung cấp thêm T1 tiết bị cáo có ông nội là ông Võ Nò là Liệt sĩ là T1 tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xét thấy mặc dù bị cáo là người khởi xướng, rủ các bị cáo khác tham gia đánh bạc, mua bộ bài phục vụ cho việc đánh bạc, sử dụng số tiền đánh bạc nhiều hơn các bị cáo khác, tuy nhiên tổng số tiền bị cáo và các bị cáo khác sử dụng để đánh bạc không lớn (12.680.000 đồng), trong đó bị cáo sử dụng số tiền đánh bạc là 4.180.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là nặng, không phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, có cơ sở giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Việc không áp dụng hình phạt tù mà áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính cũng đủ sức răn đe, giáo dục đối với bị cáo cũng như thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Vì vậy, kháng cáo của bị cáo là có cơ sở chấp nhận.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị chấp nhận kháng cáo và mức hình phạt đề nghị áp dụng cho bị cáo là phù hợp.

[5]. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6]. Án phí hình sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự,

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Văn S. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 168/2019/HS-ST ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã T:

Căn cứ khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Võ Văn S 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng về tội “Đánh bạc”.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo Võ Văn S không phải nộp.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2020/HS-PT ngày 10/01/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:09/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về