Bản án 09/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 09/2019/HS-ST NGÀY 29/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 29/01/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2018/TLST-HS ngày 20/12/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2019/QĐXXST-HS ngày 09/01/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/HSST - QĐ ngày 22/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên đối với bị cáo: Họ và tên: Lường Văn S; Tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1991, tại Điện Biên. Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: Đội X, xã Thanh Ch, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn H- SN 1960 và con bà Lường Thị X - SN 1963; Vợ: Tòng Thị B- SN 1992 (Đã ly hôn) và có 01 người con sinh năm 2010; gia đình bị cáo có 03 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ 2; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ tạm giam từ ngày 29/10/2018 đến ngày xét xử, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 29/10/2018, Lường Văn S đi bộ từ nhà đến bờ mương đầu đội X, xã Thanh Ch, huyện Điện B để tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây S đã trao đổi và mua được của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 30 t uổi không biết tên và địa chỉ 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, bên trong có 02 gói, miệng các gói đều được hơ lửa hàn kín, trong đó (01 gói heroine gói ngoài bằng nilon màu trắng và 01 gói có 19 viên Methamphetamine gói ngoài bằng nilon màu hồng) với giá 450.000 đồng. Mua xong, S cất giấu giấu gói ma túy vào trong túi quần đằng trước bên phải đang mặc rồi đi bộ về nhà. Hồi 10 giờ ngày 29/10/2018, khi S đang đứng trong nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Điện B phối hợp với Công an xã Thanh Ch bắt quả tang thu giữ tại túi quần Sơn đang mặc 01 gói heroine và 19 viên Methamphetamine.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 14 giờ 45 phút ngày 29/10/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã xác định: Số cục bột màu trắng thu giữ của Lường Văn S có khối lượng là 0,24 gam, trích mẫu gửi giám định 0,08 gam; 19 viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp có khối lượng 2,12 gam, trích mẫu 0,17 gam. Tổng khối lượng 2 chất ma túy là 2,36 gam

Tại Bản kết luận giám định số: 59/GĐ-PC09 ngày 12/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là heroine , mẫu viên nén màu hồng là Methamphetamine. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố: Do cần có ma túy để sử dụng nên bị cáo đã đi mua ma túy và bị bắt quả tang khi đang cất giấu tại nơi ở của mình 0,24 gam heroine và 2,12 gam Methamphetamine. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo.

Tại bản Cáo trạng số: 04/CT-VKSĐB ngày 20/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Lường Văn S từ 30 đến 36 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,24 gam heroine, đã trích mẫu gửi giám định 0,08 gam không hoàn lại mẫu; 2,12 gam Methamphetamine đã trích mẫu 0,17 gam không hoàn lại mẫu.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ tội cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Ngày 29/10/2018 tại nhà bị cáo, Lường Văn S đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,24 gam heroine và 2,12 gam Methamphetamine, tổng khối lượng 2 chất ma túy là 2,36 gam với mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng biên bản bắt ng ười phạm tội quả tang (BL 01- 02); Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng (BL 03-04); Kết luận giám định (BL 32); các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, bản tự khai của bị cáo và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã cất giấu trái phép trên người 0,24 gam heroine và 2,12 gam Methamphetamine, tổng khối lượng 2 chất ma túy là 2,36 gam để sử dụng cho bản thân. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 với mức hình phạt từ 01 đến 05 năm tù

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Lường Văn Sơn sinh ra và lớn lên xã Thanh Ch, huyện Điện Biên, đi học đến lớp 9/12 rồi ở nhà cùng gia đình. Năm 2007 kết hôn với Tòng Thị B, năm 2010 thì ly hôn. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2015. Bị cáo không có tiền án, tiền sự không có tình tiết tăng nặng nào song bị cáo là người có nhân thân không tốt. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. HĐXX xét xử sẽ cân nhắc hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo để có mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ rất nguy hiểm của hành vi phạm tội nhưng nhất thiết phải nghiêm khắc phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 30 tuổi không biết tên và địa chỉ tại đội 18B, xã Thanh Ch, huyện Điện Biên. Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ, HĐXX không xem xét.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là người sử dụng ma túy nguồn thu nhập chính nhờ làm ruộng nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,24 gam heroine, đã trích mẫu gửi giám định 0,08 gam không hoàn lại mẫu; 2,12 gam Methamphetamine đã trích mẫu 0,17 gam không hoàn lại mẫu.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lường Văn S 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 29/10/2018.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,24 gam heroine, đã trích mẫu gửi giám định 0,08 gam không hoàn lại mẫu; 2,12 gam Meth amphetamine đã trích mẫu 0,17 gam không hoàn lại mẫu. (Toàn bộ vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên hồi 10 giờ 00 phút ngày 25 tháng 12 năm 2018)

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 29/01/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:9/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về