Bản án 09/2019/HSST ngày 23/07/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 09/2019/HSST NGÀY 23/07/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 23 tháng 7 năm 2019, taïi trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2019//QĐXXST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lê Thị C, sinh năm: 1948 tại huyện C, tỉnh H; Đăng ký thường trú: ấp P, xã Đ, huyện C, tỉnh H; Chỗ ở hiện nay: ấp P, xã Đ, huyện C, tỉnh H; Nghề nghiệp: Mua bán; Trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Văn H (chết) và bà Lê Thị C (chết); Bị cáo có chồng và 01 con; Tiền án: không; Tiền sự: 02. Ngày 30/03/2016 bị Công an huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang ra Quyết định xử phạt hành chính số 18/QĐ-XPHC với số tiền phạt 1.500.000 đồng về hành vi “đánh bài ăn tiền”. Ngày 22/5/2018 bị Công an xã Đông Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang ra Quyết định xử phạt hành chính số 07/QĐ-XPVPHC với số tiền phạt 1.500.000 đồng về hành vi “đánh bạc ăn thua bằng tiền”, đến nay bị cáo chưa đóng phạt; Nhân thân: Xấu; Bị cáo tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Huỳnh Thị Cẩm B, sinh năm: 1979 tại quận C, thành phố C; Đăng ký thường trú: khu vực T, phường P, quận C, thành phố C; Chỗ ở hiện nay: khu vực T, phường P, quận C, thành phố C; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Huỳnh Văn S (chết) và bà Trương Thị T (sống); Bị cáo có chồng và 01 con; Tiền án: không; Tiền sự: 01. Ngày 22/5/2018 bị Công an xã Đông Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang ra Quyết định xử phạt hành chính số 06/QĐ-XPVPHC với số tiền phạt 1.500.000 đồng về hành vi “đánh bạc ăn thua bằng tiền”. Ngày 24/5/2018 bị cáo đã đóng phạt xong; Nhân thân: xấu; Bị cáo tại ngoại; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Bà Đinh Thị Lệ H, sinh năm: 1964 (có mặt)

Trú tại: E5-26 đường 50 khu dân cư, khu vực T, phường P, quận C, thành phố C

2/ Bà Nguyễn Thị C1, sinh năm: 1976 (có mặt)

Trú tại: ấp P, xã Đ, huyện C, tỉnh H

3/ Bà Trần Thị V, sinh năm: 1981 (có mặt)

Trú tại: ấp P, xã Đ, huyện C, tỉnh H

4/ Bà Phạm Thị T1, sinh năm: 1956 (có mặt)

Trú tại: khu vực P, phường P, quận C, thành phố C

5/ Bà Phạm Thị M1, sinh năm: 1963 (vắng mặt)

Trú tại: ấp P, xã Đ, huyện C, tỉnh H

6/ Bà Nguyễn Thị Ánh S1 (Nguyễn Kim T), sinh năm: 1976 (vắng mặt)

Trú tại: khu vực 4, phường H, quận C, thành phố C

7/ Bà Võ Thị C2 (Bé B), sinh năm: 1981 (vắng mặt)

Trú tại: khu vực 8, phường H, quận C, thành phố C

8/ Bà Nguyễn Thị P, sinh năm: 1980 (có mặt)

Trú tại: ấp P, xã Đ, huyện C, tỉnh H

9/ Ông Trần Văn S2, sinh năm: 1975 (có mặt)

Trú tại: ấp P, xã P, huyện C, tỉnh H

10/ Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm: 1983 (vắng mặt)

Trú tại: khu vực T, phường P, quận C, thành phố C

11/ Ông Trần Văn M2, sinh năm: 1987 (có mặt)

Trú tại: ấp P, xã Đ, huyện C, tỉnh H

12/ Ông Nguyễn Ngọc L, sinh năm: 1997 (vắng mặt)

Trú tại: ấp P, thị trấn M, huyện C, tỉnh H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 15 phút, ngày 03/01/2019 Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang tiến hành kiểm tra tại nhà của bà Nguyễn Thị C1 thuộc ấp Phú Nhơn, xã Đông Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang phát hiện Trần Thị V, Huỳnh Thị Cẩm B, Lê Thị C, Nguyễn Thị T2, Trần Văn S2, Đinh Thị Lệ H, Võ Thị C2, Phạm Thị T1, Nguyễn Thị Ánh S1 (Nguyễn Kim T), Phạm Thị M1, Nguyễn Thị P, Trần Văn M2, Nguyễn Ngọc L đang tham gia đánh bạc trái phép ăn thua trực tiếp bằng tiền.

Tang vật thu giữ gồm: Tại vị trí đánh bạc: 52 lá bài tây và 01 bộ bài tây đã qua sử dụng; tiền Việt Nam 900.000 đồng. Kiểm tra xung quanh khu vực đánh bạc tạm giữ 300.000 đồng. Kiểm tra trên người các đối tượng tạm giữ: 08 điện thoại di động các loại. 127 đô la Mỹ, 150 đô la Úc, 75 đô la Canada, tiền Việt Nam 25.845.000 đồng.

Quá trình điều tra đã xác định khoảng 03 tháng trước ngày bị bắt (ngày 03/01/2019) Nguyễn Thị C1 do có bán quán nước tại nhà nên khi một số đối tượng uống nước trong quán hỏi mượn nhà để đánh bài ăn tiền và hứa cho tiền xâu thì Nguyễn Thị C1 đồng ý và mua bài để các đối tượng đánh bạc. Trung bình mỗi ngày các đối tượng đánh bạc tại nhà, C1 thu được từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng tiền xâu. Tuy nhiên, các đối tượng đánh bạc không liên tục, có ngày chơi, ngày nghỉ. Nguyễn Thị C1 không xác định được người chơi và số tiền đánh bạc của các đối tượng.

Khong 12 giờ ngày 03/01/2019, Phạm Thị T1, Phạm Thị M1, Đinh Thị Lệ H, Trần Thị V khi đang uống nước tại quán của Nguyễn Thị C1 thì rủ nhau đánh bài ăn tiền. Lúc này Trần Thị V lấy bài tây có sẵn trong nhà Nguyễn Thị C1 rồi cùng T1, M1, H đánh bài ăn tiền (bài do C1 mua những ngày trước để các đối tượng sử dụng đánh bạc) các đối tượng chơi bài binh Ấn Độ (06 lá) gồm 01 tụ cái và 03 tụ đặt, mỗi tụ đặt từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng. Khi đánh bạc, V làm cái, còn H, M1, T1 ngồi đặt tụ. Chơi khoảng 6 đến 7 bàn, H nghỉ đi ra ngoài để uống nước. Lúc này Huỳnh Thị Cẩm B rủ Lê Thị C cùng nhau hùn tiền để đặt 01 tụ, C đồng ý. Trong lúc đặt, B ngồi ở vị trí tụ bài còn C ngồi phía sau lưng B. B và C hùn đặt 02 bàn, mỗi bàn 80.000 đồng, trong đó B hùn 50.000 đồng, còn C 30.000 đồng. Kết quả bàn đầu thắng và bàn sau thua thì B nghỉ đánh bạc, C tiếp tục đặt 02 bàn nữa, mỗi bàn đặt 30.000 đồng thì thua hết 60.000 đồng nên nghỉ chơi. Lúc này V kêu C1 đổi bộ bài mới để đánh bạc và chuẩn bị chia bàn bài mới thì lực lượng Công an vào kiểm tra. Ngày 03/01/2019 khi làm cái thì V có đưa tiền xâu cho C1 01 lần với số tiền 30.000 đồng.

Về số tiền dùng đánh bạc của các đối tượng cụ thể như sau: Lê Thị C khi đi đánh bạc mang theo 60.000 đồng, khi đánh bạc thua hết 60.000 đồng thì lực lượng Công an vào kiểm tra; Huỳnh Thị Cẩm B khi đi đánh bạc mang theo 500.000 đồng, sử dụng 50.000 đồng để đánh bạc, khi đánh bạc không ăn thua; Trần Thị V khi đi đánh bạc đem theo 510.000 đồng, sử dụng 200.000 đồng đánh bạc, khi đánh bạc không ăn thua, khi Công an kiểm tra tạm giữ 510.000 đồng, V tiếp tục sử dụng 200.000 đồng để đánh bạc; Phạm Thị T1 khi đi đánh bạc đem theo 1.590.000 đồng, sử dụng 500.000 đồng đánh bạc, khi đánh bạc thắng 300.000 đồng, khi Công an kiểm tra tạm giữ 1.890.000 đồng, T1 tiếp tục sử dụng 800.000 đồng để đánh bạc; Phạm Thi M1 khi đánh bạc mang theo 1.100.000 đồng, sử dụng 500.000 đồng đánh bạc, khi đánh bạc thua 150.000 đồng, khi lực lượng Công an kiểm tra tạm giữ 950.000 đồng, M1 tiếp tục sử dụng 350.000 đồng để đánh bạc. Đối với Đinh Thị Lệ H nghỉ đánh bạc trước khi C và B tham gia, khi đi đánh bạc mang theo 50.000 đồng sử dụng để đánh bạc, khi đánh bạc thắng được 150.000 đồng.

Đi với số tiền tạm giữ tại chiếu bạc 900.000 đồng xác định được 200.000 đồng là của Đinh Thị Lệ H, số tiền này H đặt tại vị trí đánh bạc để chuẩn bị tham gia đánh bạc thì bị lực lượng Công an kiểm tra tạm giữ, còn 600.000 đồng là của Nguyễn Thị Ánh S1 vào nhà C1 để đóng hụi cho Nguyễn Ngọc L làm rớt tại chiếu bạc khi lực lượng Công an kiểm tra, số tiền này S1 không sử dụng để đánh bạc, còn 100.000 đồng là tiền của các đối tượng khác đánh bạc để lại.

Quá trình điều tra xác định tại thời điểm Lê Thị C, Huỳnh Thị Cẩm B tham gia đánh bạc thì Trần Thị V làm cái, các tụ đặt còn lại gồm Phạm Thị T1, Phạm Thị M1. Do đó, tổng số tiền dùng vào mục đích đánh bạc là tổng số tiền của C, B, T1, M1, V tiếp tục sử dụng vào mục đích đánh bạc, cụ thể là 1.400.000 đồng (B 50.000 đồng, T1 800.000 đồng, V 200.000 đồng, M1 350.000 đồng) Đối với tang vật tạm giữ gồm 8 (tám) điện thoại di động các loại đã qua sử dụng; 127 đô la Mỹ, 150 đô la Úc, 75 đô la Canada, tiền Việt Nam 16.200.000 đồng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã trả lại cho chủ sở hữu theo quy định.

Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKS-HCT ngày 31 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố các bị cáo Lê Thị C, Huỳnh Thị Cẩm B về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát tại Tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s, o khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Xử phạt bị cáo Lê Thị C từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Đông Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35, Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Cẩm B từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

Nhng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: không ai có yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Xét hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Phạm Thị M1, Nguyễn Thị Ánh S1, Võ Thị C2, Nguyễn Thị T2 và Nguyễn Ngọc L đã được Tòa án nhân dân huyện Châu Thành triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử nhưng vắng mặt không có lý do. Quá trình điều tra thì Phạm Thị M1, Nguyễn Thị Ánh S1, Võ Thị C2, Nguyễn Thị T2 và Nguyễn Ngọc L đã có lời khai. Do đó, xét thấy việc vắng mặt của Phạm Thị M1, Nguyễn Thị Ánh S1, Võ Thị C2, Nguyễn Thị T2 và Nguyễn Ngọc L không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định pháp luật.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã có cơ sở xác định:

Vào lúc 14 giờ 15 phút ngày 03/01/2019 Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang tiến hành kiểm tra và bắt quả tang tại nhà của Nguyễn Thị C1 thuộc ấp Phú Nhơn, xã Đông Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang, thì bị cáo Lê Thị C và Huỳnh Thị Cẩm B đã tham gia đánh bạc trái phép dưới hình thức đánh bài binh Ấn Độ loại 6 lá, đếm nút ăn thua trực tiếp bằng tiền cùng các đối tượng Trần Thị V, Phạm Thị T1, Phạm Thị M1 với số tiền sử dụng đánh bạc là 1.400.000 đồng, tuy chưa đủ định lượng cấu thành cơ bản của tội đánh bạc nhưng tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Lê Thị C có 02 tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép và bị cáo Huỳnh Thị Cẩm B có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép chưa được xóa tiền sự mà còn vi phạm. Từ đó có cơ sở xác định hành vi đánh bạc mà bị cáo C và B thực hiện đã yếu tố cấu thành tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến trật tự công cộng và an toàn công cộng, làm mất an ninh tại địa phương, là tệ nạn xã hội, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến một số hệ lụy khác. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức dược đánh bạc dưới mọi hình thức ăn thua bằng tiền nhằm sát phạt lẫn nhau là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi, nên đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. do đó cần có mức xử phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo thì mới đủ sức răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Xét về nhân thân bị cáo C và B có nhân thân xấu trước khi bị bắt quả tang các bị cáo đã có tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép chưa được xóa tiền sự mà lại tiếp tục vi phạm.

Tình tiết giảm nhẹ: Đối với bị cáo Lê Thị C phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, khi phạm tội bị cáo là người đủ 70 tuổi trở lên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị cáo có cha ruột là người có công với cách mạng đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, o, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đi với bị cáo Huỳnh Thị Cẩm B phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng Từ những nhận định trên, xét đề nghị về mức hình phạt của Viện kiểm sát đối với các bị cáo là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận [5] Đối với Nguyễn Thị C1 đã có hành vi dùng nhà, cung cấp bài cho Lê Thị C, Huỳnh Thị Cẩm B, Trần Thị V, Phạm Thị T1, Phạm Thị M1 và Đinh Thị Lệ H đánh bài trái phép để thu tiền xâu. nhưng xét về số tiền các đối tượng dùng để đánh bạc và nhân thân của Nguyễn Thị C1 thì chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngày 02/5/2019, Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang đã ra Quyết định xử phạt hành chính 7.500.000 đồng về hành vi “Dùng nhà của mình để chứa bạc” (chứa đánh bài), quy định tại điểm b khoản 4 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính Phủ Đối với các đối tượng Trần Thị V, Phạm Thị M1, Phạm Thị T1 và Đinh Thị Lệ H là những người trực tiếp tham gia đánh bạc trái phép, nhưng xét về số tiền các đối tượng dùng để đánh bạc và nhân thân của V, H, M1, T1 thì chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngày 02/5/2019, Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang đã ra Quyết định xử phạt hành chính mỗi đối tượng 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép” (đánh bạc được thua bằng tiền), quy định tại điểm a khoản 2 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính Phủ.

Đi với các đối tượng Nguyễn Thị T2, Trần Văn S2, Võ Thị C2, Nguyễn Thị Ánh S1 (Nguyễn Kim T), Nguyễn Thị P, Trần Văn M2, Nguyễn Ngọc L có mặt tại điểm đánh bạc, quá trình điều tra không chứng minh được có tham gia đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành không xem xét xử lý là đúng quy định [6] Riêng đối với hành vi của Đinh Thị Lệ H xét thấy: Trong quá trình điều tra xác định được, ngày 19/12/2016 Đinh Thị Lệ H bị Công an quận C, thành phố C bắt quả tang về hành vi đánh bạc, ngày 08/12/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C, thành phố C ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, ngày 19/12/2017 Ủy ban nhân dân quận C, thành phố C ra Quyết định xử phạt hành chính 2.000.000 đồng đối với Đinh Thị Lệ H về hành vi đánh bạc trái phép, do Đinh Thị Lệ H bỏ địa phương đi làm ăn nhiều nơi, Công an quận C, thành phố C đã 02 lần lập biên bản vắng mạt tại địa phương, không xác định đi đâu nên không trao Quyết định xử phạt hành chính được, do đó xác định H chưa biết bản thân có tiền sự, đến ngày 15/01/2019 khi biết mình có tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép thì Đinh Thị Lệ H mới đến Công an quận C, thành phố C nhận quyết định xử phạt hành chính và đã nộp phạt xong ngày 18/01/2019, nên không xử lý hình sự đối với H trong vụ án này. Tuy nhiên theo biên bản lấy lời khai ban đầu ngày 03/01/2019 (bút lục 18-19) của Đinh Thị Lệ H trong vụ án này thì Hồng khai có 01 tiền sự là năm 2017 bị Công an quận C xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép. Đồng thời tại phiên tòa hôm nay bà H khai đã biết bản thân bị Công an quận C xử phạt hành chính 2.000.000 đồng về hành vi đánh bạc trước ngày 03/01/2019, chứ không phải ngày 15/01/2019 bà H mới biết có tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép, vì năm 2018 bà Hồng về nhà thì được gia đình nói lại. Do đó Hội đồng xét xử kiến nghị đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành, Công an tỉnh Hậu Giang, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang xem xét lại hành vi của Đinh Thị Lệ H để tránh bỏ lọt tội phạm.

[7] Về vật chứng:

Tch thu tiêu huỷ: 52 (năm mươi hai) lá bài tây, đã qua sử dụng và 01 (một) bộ bài tây, đã qua sử dụng.

Tch thu sung công quỹ nhà nước: các khoản tiền như sau: 1.400.000 đồng tạm giữ của bị cáo B và các đối tượng khác sử dụng để đánh bạc (gồm bị cáo B 50.000 đồng, Phạm Thị T1 800.000 đồng, Phạm Thị M1 350.000 đồng, Trần Thị V 200.000 đồng) 300.000 đồng trong 900.000 đồng tạm giữ trên chiếu bạc (gồm 200.000 đồng của Đinh Thị Lệ H, lúc đầu H sử dụng 50.000 đồng đánh bạc và thắng được 150.000 đồng và 100.000 đồng không xác định được của ai. 300.000 đồng tạm giữ tại khu vực xung quanh chiếu bạc, nhưng không xác định được của ai 30.000 đồng tạm giữ của Nguyễn Thị C1 là tiền xâu do Trần Thị V đưa. Tổng cộng số tiền sung công quỹ nhà nước là: 2.030.000 đồng Trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp các khoản tiền không liên quan đến hành vi đánh bạc. Cụ thể:

Trả cho bà Nguyễn Thị Ánh S1 (Nguyễn Kim T) 700.000 đồng, trong đó 600.000 đồng làm rớt tại chiếu bạc và 100.000 đồng tạm giữ trên người của bà S1.

Trả cho bị cáo Huỳnh Thị Cẩm B 450.000 đồng Trả cho bà Phạm Thị T1 1.090.000 đồng Trả cho bà Trần Thị V 310.000 đồng Trả cho bà Phạm Thị M1 600.000 đồng Trả cho bà Nguyễn Thị C1 120.000 đồng Trả cho bà Võ Thị C2 5.600.000 đồng Trả cho ông Trần Văn S2 60.000 đồng Trả cho bà Nguyễn Thị P 35.000 đồng [7] Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng

 Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 250, 254, 259, 260, 262, 299, 326, 327 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Các bị cáo Lê Thị C và Huỳnh Thị Cẩm B phạm tội “Đánh bạc” Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 36; điểm i, o, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Lê Thị C 9 (chín) tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh H nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Do bị cáo Lê Thị C là người cao tuổi (trên 70 tuổi) mất sức lao động và không có việc làm ổn định nên được miễn việc khấu trừ thu nhập trong thời gian chấp hành án Giao bị cáo Lê Thị C cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh H là nơi bị cáo thường trú, giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015 thì người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Cẩm B số tiền 25.000.000 đồng Kiến nghị đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành, Công an tỉnh Hậu Giang, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang xem xét lại hành vi của Đinh Thị Lệ H.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu huỷ: 52 (năm mươi hai) lá bài tây, đã qua sử dụng và 01 (một) bộ bài tây, đã qua sử dụng.

Tch thu sung công quỹ nhà nước tổng số tiền: 2.030.000 đồng Trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp các khoản tiền không liên quan đến hành vi đánh bạc. Cụ thể:

Trả cho bà Nguyễn Thị Ánh S1 (Nguyễn Kim T) 700.000 đồng.

Trả cho bị cáo Huỳnh Thị Cẩm B 450.000 đồng

Trả cho bà Phạm Thị T1 1.090.000 đồng

Trả cho bà Trần Thị V 310.000 đồng

Trả cho bà Phạm Thị M1 600.000 đồng

Trả cho bà Nguyễn Thị C1 120.000 đồng

Trả cho bà Võ Thị C2 5.600.000 đồng

Trả cho ông Trần Văn S2 60.000 đồng

Trả cho bà Nguyễn Thị P 35.000 đồng

Tất cả vật chứng nêu trên theo phiếu nhập kho số PNK 18 và biên lai thu tiền số 0006278, cùng ngày 5 tháng 6 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang

Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HSST ngày 23/07/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:09/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về