Bản án 09/2019/HS-ST ngày 22/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 09/2019/HS-ST NGÀY 22/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/HSST ngày 17 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Quang Đ - Sinh ngày: 16/6/1998;

Sinh trú quán: Khu 16, xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 07/12; Nghề nghiệp: lao động tự do;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bố đẻ: Nguyễn Văn Ngh, sinh năm 1977;

Mẹ đẻ: Đặng Thị Ph, sinh năm 1980;

(Bố, mẹ hiện đều ở tại khu 16, xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ).

Anh, chị, em ruột: cú 03 (bị cáo là con thứ nhất)

Vợ, con: chưa cú.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/10/2018 đến ngày 07/11/2018 thì được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại khu 16, xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. (có mặt)

*Người bị hại: chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1968

Địa chỉ: khu 4, xã Phương Thịnh, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 28/10/2018, Công an huyện Tam Nông nhận được tin báo của Công an xã Phương Thịnh, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ và đơn trình báo của chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1968 (ở khu 4, xã Phương Thịnh, huyện Tam Nông) về việc: “Khoảng 18 giờ ngày 28/10/2018, chị N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 19N1-211.49 đến trước cửa hàng tạp hóa của gia đình anh Nguyễn Tiến L, sinh năm 1985 (ở khu 4, xã Phương Thịnh, huyện Tam Nông), chị N tắt máy dựng xe ở trước cửa hàng nhưng không rút chìa khóa xe rồi đi vào trong nhà anh L. Một lúc sau thì phát hiện chiếc xe mô tô đã bị kẻ gian lợi dụng sơ hở trộm cắp, giá trị thiệt hại 15.000.000 đồng”.

Khoảng 20 giờ cùng ngày chị Đinh Thị L, sinh năm 1993 (ở khu Tân An 4, thị trấn Yên Lập, huyện Yên Lập, Phú Thọ) đang ở nhà thì thấy cú 02 thanh niên đi 02 xe mô tô đến (đó là Nguyễn Tiến Th và Nguyễn Quang Đ), Th điều khiển 01 chiếc xe mô tô dựng ở trước cửa rồi nói với chị L cho gửi nhờ (trong hai người này chị L biết mặt một người là Th nhưng không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể) thấy biểu hiện nghi vấn nên chị L đã gọi điện trình báo Công an huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ. Nhận được tin báo, Công an huyện Yên Lập đến kiểm tra khi phát hiện thấy Công an thì Th bỏ chạy nên không bắt giữ được.

Công an huyện Yên Lập đã tiến hành tạm giữ: 02 chiếc xe mô tô (gồm 01 chiếc xe Honda wave màu xanh đen bạc không có biển kiểm soát và 01 chiếc xe Honda Wave màu đen xám BKS 29L1-296.67; 01 hộp đựng đồ bằng kim loại bên trong cú 02 chiếc máy khoan bê tông, thu giữ trên người Đ 01 điện thoại di động Nokia 106, 01 ví giả da bên trong có 163.000 đồng. Công an huyện Yên Lập đã đưa Nguyễn Quang Đ và toàn bộ tang vật về công an huyện Yên Lập để làm rõ.

Quá trình làm việc xác định Nguyễn Quang Đ và Nguyễn Tiến Th là người đó trộm cắp chiếc xe mô tô của chị Nguyễn Thị N nên Công an huyện Yên Lập đã bàn giao đối tượng cùng toàn bộ vật chứng liên quan đến vụ án cho Cơ quan Cảnh sát Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Nông để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 29/10/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Nông đó tiến hành Trưng cầu định giá tài sản. Tại bản kết luận định giá tài sản cùng ngày của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của huyện Tam Nông đó định giá và kết luận “giá trị chiếc xe mô tô HONDA WAVE màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 19N1-211.49 là: 15.000.000 đồng”.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Quang Đ đó khai nhận hành vi phạm tội của mình và đồng bọn như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 28/10/2018, Nguyễn Tiến Th điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29L1-296.67 chở Nguyễn Quang Đ đi từ thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ về huyện Cẩm Khê. Trên đường đi thì Th nói với Đ “Để ý đá lấy cái xe”, Đ hiểu ý là để ý trộm cắp xe máy. Khi cả hai đi đến cửa hàng tạp hóa của gia đình anh Nguyễn Tiến L (khu 4, xã Phương Thịnh, huyện Tam Nông) Đ và Th quan sát thấy trước cửa hàng có dựng bốn đến năm chiếc xe máy. Th điều khiển đi qua khoảng 04 - 05 m thì quay xe lại dừng ở bên đường đối diện, Đ đứng ở ngoài còn Th xuống xe đi bộ vào cửa hàng tạp hóa mục đích tìm xem có chiếc xe máy nào sơ hở để trộm cắp, cùng lúc này thì thấy cú người phụ nữ (chị Nguyễn Thị N) điều khiển xe mô tô HONDA WAVE màu xanh đen bạc đi đến, dựng xe ở trước cửa hàng tạp hóa tắt máy nhưng không rút chìa khóa điện rồi đi vào bên trong. Thấy vậy, Th hất hàm với Đ ý nói chạy đi, rồi Th ngồi lên chiếc xe mô tô của chị Nnổ máy bỏ chạy đi về hướng xã Quang Húc, huyện Tam Nông, Đức cũng điều khiển xe mô tô bỏ chạy theo chiều ngược lại về phía xã Tứ Mỹ, huyện Tam Nông, trong quá trình bỏ chạy Th đó dừng xe và tháo biển kiểm soát của chiếc xe mô tô vứt đi. Sau đó, Th gọi điện cho Đ hẹn gặp nhau ở trường THCS xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê. Khoảng 15 phút sau Đức và Thuận gặp nhau, Thuận hỏi Đ có biết chỗ nào cầm cố, tiêu thụ chiếc xe mô tô trộm cắp thì Đ gọi điện cho anh Vi Văn Đ, sinh năm 1997 (ở khu 16, xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê) để hỏi có mua xe máy không có giấy tờ không thì anh Đ trả lời không mua. Không tìm được nơi tiêu thụ nên Đ và Th bàn đem chiếc xe vừa trộm cắp vào huyện Yên Lập để tìm nơi tiêu thụ. Th điều khiển chiếc xe mô tô trộm cắp còn Đ điều khiển chiếc xe mô tô của Th khi vào đến thị trấn Yên Lập thì Th đi vào cửa hàng ảnh viện áo cưới của chị Định Thị L, còn Đ đứng chờ ở ngoài đường cách khoảng 5 m, Th núi với chị L cho gửi nhờ chiếc xe mô tô rồi sau đó Th đi lại chỗ Đ lờn xe mô tô bảo Đ đi được khoảng 200m thì Th bảo Đ dừng lại, Th xuống xe đi vào một cửa hàng sửa chữa xe máy (mục đích là để hỏi bán chiếc xe máy trộm cắp). Khi Th đến trước cửa hàng sửa chữa xe máy thì lúc này Công an huyện Yên Lập đến kiểm tra, Th liền bỏ chạy, còn Đ đó bị Công an huyện Yên Lập kiểm tra và đưa về trụ sở để làm việc. Lời khai, kiểm điểm của Nguyễn Quang Đ phù hợp với lời khai của người bị hại, nhân chứng, vật chứng đó thu giữ và các tài liệu khác cú trong hồ sơ vụ án.

Căn cứ lời khai của Nguyễn Quang Đ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Nông đó tiến hành triệu tập Nguyễn Tiến Th đến làm việc. Tuy nhiên Th không cú mặt theo giấy triệu tập, xác minh tại chính quyền địa phương và gia đình, đó xác định Thuận đã bỏ trốn khỏi địa phương.

Tại bản cáo trạng số 06/CTr-VKSTN ngày 15/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Nông đã truy tố Nguyễn Quang Đ ra trước Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra và trước phiên tòa hôm nay Nguyễn Quang Đức đó khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố như cáo trạng đã nêu và đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Đề nghị áp dụng khoản 1 điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 65 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Đ từ 15 đến 18 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xác nhận Cơ quan điều tra, Công an huyện Tam Nông đó trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 19N1-211.49 cho chị Nguyễn Thị N, sau khi nhận lại tài sản chị N không có yêu cầu đề nghị gì thêm. Theo biên bản trả lại tài sản ngày 30/11/2018 là hợp pháp.

Xác nhận Cơ quan điều tra, Công an huyện Tam Nông đó trả lại bị cáo Nguyễn Quang Đ: 01 hộp đựng đồ bằng kim loại, 02 chiếc máy khoan bê tông, 01 ví giả da và 163.000 đồng. Theo biên bản trả lại tài sản ngày 30/11/2018.

Tịch thu bán sung quỹ nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động Nokia 106 (bên trong có số thuê bao 0363.843.111) là phương tiện Đ và Nguyễn Tiến Th sử dụng để liên lạc sau khi trộm cắp tài sản.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên của bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đó được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, người bị hại, phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang của cơ quan điều tra và vật chứng đã thu được phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 28/10/2018, Nguyễn Quang Đ và Nguyễn Tiến Th đã có hành vi lợi dụng sự sơ hở của chị Nguyễn Thị N trong việc trông coi, quản lý tài sản để lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô trị giá: 15.000.000 đồng, tại cửa hàng tạp hóa của gia đình anh Nguyễn Tiến L (ở khu 4, xã Phương Thịnh, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ). Hành vi của Nguyễn Quang Đ và Nguyễn Tiến Th đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Quang Đ đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000đồng hoặc dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[2] Xét thấy tính chất vụ án là thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, hành vi của bị cáo còn gây mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn.Vì vậy đưa bị cáo ra xét xử và có hình phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau: Bị cáo Nguyễn Quang Đ chưa có tiền án, tiền sự nên không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Người bị hại là chị N cú đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s, khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, có thể áp dụng một mức hình phạt không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng hình phạt tự nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách nhất định cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, thể hiện đường lối xét xử hình sự và chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.

[3] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự có quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”. Xét thấy qua xác minh của cơ quan điều tra bị cáo Nguyễn Quang Đ không có tài sản nên không áp dụng hình phạt tiền là phù hợp.

[4] - Xét về phần dân sự: Quá trình điều tra người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên hội đồng xét xử không xem xét là phù hợp.

[5] Đối với Nguyễn Tiến Th sau khi phạm tội bị phát hiện, Th đã bỏ trốn khởi địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Nông đã ra quyết định khởi tố bị can và ra lệnh truy nã nhưng vẫn chưa bắt được Th. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã ra quyết định tạm đình chỉ điều tra đối với Nguyễn Tiến Th và tách hồ sơ vụ việc khi nào bắt được Nguyễn Tiến Th sẽ xử lý sau là phù hợp.

[6] - Về xử lý vật chứng:

- Cơ quan điều tra, Công an huyện Tam Nông đó trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 19N1-211.49 cho chị Nguyễn Thị N, sau khi nhận lại tài sản chị N không có yêu cầu đề nghị gì thêm. Theo biên bản trả lại tài sản ngày 30/11/2018 là hợp pháp cần xác nhận.

- Cơ quan điều tra, Công an huyện Tam Nông đó trả lại cho bị cáo Nguyễn Quang Đ: 01 hộp đựng đồ bằng kim loại, 02 chiếc máy khoan bê tông, 01 ví giả da và 163.000 đồng. Theo biên bản trả lại tài sản ngày 30/11/2018 là phù hợp cần xác nhận.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động Nokia 106 (bên trong có số thuê bao 0363.843.111) là phương tiện Đ và Nguyễn Tiến Th sử dụng để liên lạc sau khi trộm cắp tài sản cần tịch thu bán sung quỹ nhà nước là phù hợp.

- Đối với chiếc xe môtô Honda Wave màu đen xám BKS 29L1 - 29.667 cơ quan điều tra đã xác minh xác định chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị B (ở khu tập thể công ty xây dựng số 2 Phường Xuân Đỉnh, quận Từ Liêm, thành phố Hà Nội) nhưng hiện nay chị B không còn cư trú tại địa chỉ trên, hiện không rõ ở đâu để xác minh làm rõ nguồn gốc chiếc xe. Vì vậy cơ quan điều tra có quan điểm tách cùng hồ sơ của Nguyễn Tiến Th để khi nào bắt được Th làm rõ xử lý sau (hiện đang được tạm giữ tại kho vật chứng của Công an huyện Tam Nông) là phù hợp nên HĐXX không xem xét trong vụ án này.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án theo quy định của pháp luật

Bị cáo, Người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quang Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Đ 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Nguyễn Quang Đ cho UBND xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành bản án. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự.

- Hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định tại khoản 5 điều 65 của Bộ luật hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 2 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

+ Hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Đ.

*Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Xác nhận Cơ quan điều tra, Công an huyện Tam Nông đó trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 19N1-211.49 cho chị Nguyễn Thị N, sau khi nhận lại tài sản chị N không có yêu cầu đề nghị gì thêm. Theo biên bản trả lại tài sản ngày 30/11/2018 là hợp pháp.

+ Xác nhận Cơ quan điều tra, Công an huyện Tam Nông đó trả lại cho bị cáo Nguyễn Quang Đ: 01 hộp đựng đồ bằng kim loại, 02 chiếc máy khoan bê tông, 01 ví giả da và 163.000 đồng. Theo biên bản trả lại tài sản ngày 30/11/2018 là phù hợp.

+ Tịch thu bán sung quỹ nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động Nokia 106 (bên trong cú số thuê bao 0363.843.111) là phương tiện Đ và Nguyễn Tiến Th sử dụng để liên lạc sau khi trộm cắp. (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/01/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông).

*Về án phí: áp dụng khoản 2 điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Khoản 1, điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về thu, nộp và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Quang Đ phải chịu 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo (có mặt) được quyền kháng cáo, Người bị hại (vắng mặt) được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HS-ST ngày 22/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về