Bản án 09/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 09/2019/HS-ST NGÀY 12/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 3 năm 2019, tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã CT, Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2019/TLST - HS, ngày 30 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Dương Văn S, sinh ngày 28/5/1981.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm TC, xã CT, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: sán dìu; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Văn H, sinh năm 1945 và bà Hoàng Thị V, sinh năm 1947. Gia đình có 7 chị em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; có vợ là Ngô Thị X, sinh năm 1984, có 02 chung, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/01/2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ, lưu giam Công an huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Chị Ngô Thị X, sinh năm 1984 - có mặt

Trú tại: Xóm TC, xã CT, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

Người chứng kiến:

Anh Phan Văn C, sinh năm 1969 – vắng mặt

Trú tại: Tổ 3, thị trấn TC, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 18 giờ ngày 01/01/2019, tại tổ 04, thị trấn TC, huyện   ĐH, tỉnh Thái

Nguyên, tổ công tác Công an thị trấn TC đang làm nhiệm vụ thì phát hiện 01 nam thanh niên đang điều khiển xe mô tô có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận và yêu cầu nam thanh niên dừng lại kiểm tra. Nam thanh niên khai là Dương Văn S ( SN: 1981, trú tại xóm TC, xã CT, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên). Tiến hành kiểm tra người S, phát hiện trong tay phải của S đang cầm 01 gói giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng, S khai là Heroine. Ngoài ra, Tổ công tác còn thu giữ 01 chiếc xe mô tô kiểu dáng Dream, BKS 20L7-6911. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng chuyển cơ quan CSĐT Công an huyện Đồng Hỷ giải quyết theo thẩm quyền.

Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Hỷ tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Dương Văn S, kết quả không thu giữ được gì.

Tại biên bản niêm phong, cân xác định trọng lượng ngày 01/01/2019, xác định toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của S có trọng lượng: 0,183gam.

Tại Bản kết luận giám định số 241/KL- PC09 ngày 08/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Số chất bột màu trắng trong mẫu A1 thu giữ của Dương Văn S là chất ma túy, loại heroine, có khối lượng là 0,183 gam.

Tại cơ quan điều tra Sáu khai nhận: Bản thân là đối tượng nghiện ma túy, khoảng 17 giờ 30 ngày 01/01/2019, S điều khiển xe mô tô BKS 20L7-6911(đăng ký mang tên Nguyễn Tuấn Anh, sinh năm 1984, trú tại Tổ 27, TT Chùa Hang, Đồng Hỷ, Thái Nguyên) từ nhà tại xóm TC, xã CT, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực đập Ba Đa, thuộc xã Bàn Đạt, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên gặp và mua với một đối tượng tên Lịch (không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 gói Heroine  với  giá  100.000  đồng  để  sử  dụng  cho  bản  thân.  Sau  khi  mua  được Heroine, S cầm gói Heroine ở tay phải điều khiển xe quay về, khi đến khu vực tổ 4, thị trấn TC, huyện Đồng Hỷ thì bị tổ công tác Công an bắt giữ.

Vật chứng vụ án gồm: 01 xe mô tô kiểu dáng Dream, biển kiểm soát 20L7- 6911; 02 phong bì niêm phong ký hiệu A1, LK. Hiện số vật chứng trên đang được bảo quản theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 09/CT -VKSĐH ngày 29/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Dương Văn S về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ngô Thị X xác định chiếc xe bị cáo S sử dụng đi mua ma túy là tài sản chung của vợ chồng, hiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, thuộc diện hộ cận nghèo, chiếc xe là phương tiện duy nhất của gia đình nên đề nghị HĐXX cho được nhận lại chiếc xe để sử dụng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ tham gia phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân của bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Dương Văn S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng: - Điểm c khoản 1 Điều 249 điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Dương Văn S từ 18 đến 24 tháng tù.  Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 46, 47 Bộ luật hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong ký hiệu  A1, LK

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo 01 xe mô tô kiểu dáng Dream, biển kiểm soát 20L7-6911, xe đã cũ qua sử dụng, yên xe bị rách, gương chiếu hậu bên phải bị vỡ mặt kính, xi nhan bên trái bị vỡ, phần thân xe bị trầy xước nhiều chỗ. Không có giấy tờ kèm theo. Xe có số máy VTTJL1P50FMG-T002200, số khung RRKDCGUTT5X002200.

-  Áp  dụng  Điều  136  của  Bộ  luật  tố  tụng  hình  sự  và  Nghị  quyết  số326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, trong phần lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố cơ quan điều tra,Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên huyện Đồng Hỷ, trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong hồ sơ vụ án như:

Biên bản phạm tội quả tang, biên bản cân xác định trọng lượng và lấy mẫu giấm định, Bản kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập trong quá trình điều tra. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 18 giờ ngày 01/01/2019, tại tổ 4, thị trấn TC, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, Dương Văn S đang có hành vi tàng trữ 01 gói heroine, có khối lượng 0,183 gam để sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ một số vật chứng có liên quan. Hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ.

Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. a)…

c) Heroine, cocaine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5.  Người  phạm  tội  còn  có  thể  bị  phạt  tiền  từ  5.000.000  đồng  đến 500.000.000 đồng,....”

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, biết rõ hành vi mua bán tàng trữ... ma túy bị pháp luật cấm, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, làm suy kiệt kinh tế gia đình, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp quyết liệt và nghiêm khắc nhằm loại bỏ loại tội phạm này.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là đối tượng nghiện chất ma túy. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Khi lượng hình hội đồng xét xử xem xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để lên một mức án nghiêm minh để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân không có mục đích bán để kiếm lời, mặt khác bị cáo thuộc hộ cận nghèo, gia đình không có tài sản gì có giá trị nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1, LK là vật chứng của vụ không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô kiểu dáng Dream, biển kiểm soát 20L7-6911 số máy VTTJL1P50FMG-T002200, số khung RRKDCGUTT5X002200, thu giữ khi bắt bị cáo, bị cáo khai xe của vợ chồng mua làm phương tiện đi lại, việc bị cáo lấy xe đi vợ không biết. Mặt khác tại phiên tòa hôm nay chị Ngô Thị X là vợ bị cáo, trình bày chiếc xe trên là tiền do hai vợ chồng tích cóp mua để làm phương tiện đi lại phục vụ cho gia đình, việc chồng chị lấy xe đi mua ma túy chị không biết, nay chị đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả cho chị chiếc xe để sử dụng. Xét đề nghị của bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là có căn cứ nên Hội đồng xét xử trả chiếc xe trên cho chị X để quản lý, sử dụng.

[7] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo thuộc hộ cận nghèo và có đơn xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử xem xét miễn án hình sự sơ thẩm cho bị cáo, theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình   sự  và Nghị  quyết  số 326/2016/UBTVQH14.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Đề nghị nêu trên là có căn cứ phù hợp với tính chất vụ án, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

Về nguồn gốc số heroine là do Sáu   mua của 01 người đàn ông tên Lịch (không rõ lai lịch, địa chỉ) ở khu vực đập Ba Đa thuộc xã Bàn Đạt huyện Phú Bình nhưng do không xác định được lai lịch, địa chỉ của người đàn ông trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Hỷ không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự,

Tuyên bố: Bị cáo Dương Văn S phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Dương Văn S 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/01/2019. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1, LK.

- Trả cho chị Ngô Thị X 01 xe mô tô kiểu dáng Dream, biển kiểm soát 20L7- 6911. Xe đã cũ qua sử dụng, yên xe bị rách, gương chiếu hậu bên phải bị vỡ mặt kính, xi nhan bên trái bị vỡ, phần thân xe bị trầy xước nhiều chỗ. Xe có số máy VTTJL1P50FMG-T002200, số khung RRKDCGUTT5X002200. Không có giấy tờ kèm theo. (Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của chi cục thi hành án huyện Đồng Hỷ. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 30 tháng 01 năm 2019).

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ  Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về