Bản án 09/2019/HS-PT ngày 28/02/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 09/2019/HS-PT NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 80/2018/TLPT-HS ngày 22/11/2018 đối với bị cáo Võ Kim L, do có kháng cáo của bị cáo Võ Kim L đối với bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HS-ST ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ngãi.

*Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Võ Kim L; tên gọi khác: Đ; sinh ngày 04/12/1992, tại huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; nơi ĐKHKTT: thôn V , xã P, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Kim B và bà Nguyễn Thị L; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/10/2018 cho đến nay; bị cáo đang giam; có mặt tại phiên tòa;

Người bào chữa cho bị cáo Võ Kim L: Ông Trần Đức N, Luật sư Văn phòng Luật sư C, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi; có mặt tại phiên tòa;

Người bị hại:

1. Ông Nguyễn Duy N, sinh năm 1991;

2. Ông Nguyễn Duy V, sinh năm 1992;

Đều trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn C, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; Đều có mặt tại phiên tòa;

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại Nguyễn Duy N: Ông Phan Thanh V, Luật sư Văn phòng Luật sư A, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi; có mặt tại phiên tòa;

Người làm chứng:

1. Ông Đoàn Nhật N, sinh năm 1991; Trú tại: Tổ dân phố Đ, thị trấn C, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt tại phiên tòa;

2. Ông Võ Văn A, sinh năm 1992; Trú tại: Thôn A, xã D, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa;

3. Ông Đặng Văn C, sinh năm 1985; Trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn C, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa;

4. Ông Võ Kim B, sinh năm 1966; Trú tại: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa;

5. Ông Nguyễn Anh N, sinh năm 1994; Trú tại: Thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa;

6. Ông Hoàng Gia Đ, sinh năm 1996; Trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn C, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa;

7. Ông Nguyễn Quang T, sinh năm 1991; Trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn C, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa;

8. Ông Nguyễn Tấn B, sinh năm 1991; Trú tại: Thôn V, xã Đ, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa;

9. Bà Ngô Thị H, sinh năm 1974; Trú tại: Tổ dân phố P, thị trấn C, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt tại phiên tòa;

10. Ông Phạm Văn A, sinh năm 1972; Trú tại: Tổ dân phố Đ, thị trấn C, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa;

11. Bà Đồng Thị Đ, sinh năm 1967; Trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn C, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa;

12. Bà Võ Thị Thùy D, sinh năm 1992; Trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn C, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa;

13. Ông Đoàn Văn T, sinh năm 1992; Trú tại: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa;

14. Ông Đoàn Ngọc S, sinh năm 1994; Trú tại: xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi;

vắng mặt tại phiên tòa;

15. Ông Nguyễn N, sinh năm 1959; Trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn C, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 25/7/2017, chị Võ Thị Thùy D tổ chức tiệc sinh nhật tại nhà hàng XO2 ở thị trấn C và mời một số bạn bè trong đó có Nguyễn Duy N, Nguyễn Duy V, Đoàn Nhật N, Nguyễn Quang T đến quán để dự. Sau khi ăn nhậu xong cả nhóm đến quán karaoke XX để hát karaoke tại phòng hát số 2 của quán (V có công chuyện nên đến sau). Cùng thời điểm này, Võ Kim L cũng đến quán karaoke XX và hát karaoke cùng với bạn bè tại phòng hát số 1 ở tầng trệt.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Đặng Văn C, Võ Văn A (Đ), Nguyễn Anh N và Hoàng Gia Đ đến quán karaoke XX để hát, nhưng không có N viên nữ phục vụ nên cả nhóm ra trước sân quán để đứng. Sau khi Võ Kim L hát karaoke xong ra trước sân quán chuẩn bị đi về thì gặp Võ Văn A, giữa hai bên đã xảy ra cải vã, mâu thuẫn với nhau. Võ Văn A đến xe mô tô 76F1-192.XX mở cốp xe lấy ra một đoạn cây kim loại (cây ba khúc) đến đánh L, L dùng tay phải che đỡ, đồng thời xông đến dùng tay trái kẹp cổ A rồi dùng tay phải đánh vào mặt của A, thấy vậy Hoàng Gia Đ và Nguyễn Anh N đến can ngăn. Vì sợ nhóm của A tiếp tục xông vào quán để đánh nhau, gây ảnh hưởng đến quán nên chủ quán đã đóng cửa lại và kéo L vào trong quầy bên trong quán.

Lúc này, Đoàn Nhật N đang hát karaoke ở phòng hát số 2 ra để đi vệ sinh. Sau khi đi vệ sinh xong N vào lại quán, cùng lúc đó Nguyễn Duy V vừa điều khiển xe mô tô đến cổng ngõ trước quán karaoke XX nhưng thấy cổng ngõ đã đóng. Lúc này, Nguyễn Duy N và Nguyễn Quang T đang đứng trước quầy tính tiền đề nghị chủ quán mở cổng để V, N đi vào trong quán. Nhưng Võ Kim L nghĩ rằng Võ Văn A điện thoại cho Nguyễn Duy N mở cửa để A xông vào đánh L, nên L không cho mở cửa. Bực tức, nên N đã dùng tay đánh vào mặt L, L rút dao ở túi quần ra đâm nhiều cái về phía N (nhưng không trúng) đồng thời dùng chân đạp N ngã vào vị trí để xe máy ở sảnh quán nhưng không gây ra thương tích gì.

Cùng lúc này, Nguyễn Duy V đã trèo qua cổng ngõ vào phía bên trong thì thấy N bị đánh (N là anh ruột của V) nên đã xông vào can ngăn thì bị L dùng dao đâm gây thương tích là 3% nên V đi ra trước sảnh quán để ngồi. Khi đó, chủ quán can ngăn kéo L vào phía bên trong quầy và đóng cửa chốt lại, còn V, N và T đang ở trước sảnh quán karaoke. Sau đó, Nguyễn Tấn B là bạn của L, nhìn thấy sự việc nên đã trèo qua cổng ngõ đi vào bên trong quán để can ngăn. Thấy cửa trước quầy đã bị đóng, B đã gọi cửa nhưng không có ai mở nên đã dùng tay đập vào cửa dẫn đến cửa kính bị bể vỡ. Vừa lúc đó, Đoàn Nhật N leo qua cổng ngõ và thấy có một người thanh niên cầm cây kim loại đứng ở gần cổng nên đã giật lấy để vào đánh giải vây cho N thì Võ Kim L đã cầm dao chạy đến mở chốt cửa xông ra ngoài quán mục đích để đánh nhau với những người ở bên ngoài. N chưa sử dụng cây ba khúc để đánh nhau với L thì Nguyễn Duy N đã giật lấy cây ba khúc chủ động xông vào đánh với L. N cầm cây ba khúc đánh trúng vào vùng đầu và hông bên phải của L gây thương tích 2%; còn L cầm dao đâm trả nhiều cái về phía N trúng vào vùng bụng gây thương tích là 49% và lưỡi dao bị rơi ra khỏi cán. Khi được mọi người can ngăn thì L bỏ đi vào phía bên trong quán và chủ quán đã đóng cửa lại, còn N được bạn bè đưa qua cổng ngõ đến bệnh viện cấp cứu. Lúc này, Nguyễn Quang T đứng ở sảnh quán có lời nói qua lại với L thì L tiếp tục xuống bếp lấy một dao Thái Lan có cán nhựa màu đen mở cửa xông ra đâm về phía T trúng vào vùng nách bên phải của T nên T bỏ chạy, còn Võ Kim L đã trèo qua hàng rào phía sau quán karaoke bỏ trốn. Nguyễn Duy N bị thương tích nặng, cấp cứu giải phẫu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi, sau đó gia đình chuyển đến bệnh viện Đà Nẵng để chữa trị đến ngày 04/8/2017 thì xuất viện.

Tại kết luận giám định thương tích số 124/GĐPY ngày 07/9/2017 đối với Nguyễn Duy N của Phòng Giám định pháp y Bệnh viện Đa khoa Quảng Ngãi kết luận: 01 sẹo bụng trái (do đâm) KT (3X0,2) cm, màu hồng. Sẹo vết thương thấu bụng đã gây ra thương tích như sau: Thủng dạ dày đã khâu, không gây biến dạng dạ dày: 31%; Khâu cầm máu mạc nối lớn, mạc treo đại tràng ngang: 18% (theo phương pháp cộng lùi); 02 sẹo mổ bụng (không xếp tỉ lệ, vì đã tính vào khâu dạ dày và khâu cầm máu mạc nối, mạc treo). Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là 49% (bốn mươi chín phần trăm). Tổn thương trên phù hợp với vật sắc nhọn gây thương tích.

Tại kết luận giám định thương tích số 159/2017/GĐPY ngày 16/11/2017 đối với Nguyễn Duy V của Phòng Giám định pháp y Bệnh viện Đa khoa Quảng Ngãi kết luận: 01 vết sẹo ở vùng mắc cá ngoài cổ tay trái KT (2,5 X 0,5 cm), màu nâu 02 %; 01 vết sẹo bụng ở vùng thượng vị KT (01 X 0,3) cm, màu nâu hồng 01 %. Tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn Duy V do thương tích gây ra là 03% (ba phần trăm).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HSST ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ngãi quyết định:

Tuyên bố: Võ Kim L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: điểm c khoản 3 Điều 134; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Võ Kim L 06 (sáu) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam (ngày 10/10/2018).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 23/10/2018, bị cáo Võ Kim L có đơn kháng cáo đề nghị hủy toàn bộ hoặc sửa về phần tội danh của bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HSST ngày 10/10/2018 của Tòa án N dân huyện H, tỉnh Quảng Ngãi vì hành vi của bị cáo dùng dao đâm người bị hại Nguyễn Duy N và Nguyễn Duy V chỉ là gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Kim L thay đổi nội dung kháng cáo và khai nhận cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có có căn cứ, đúng người, đúng tội và không oan. Nhưng bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo 06 năm tù là quá nặng, bị cáo xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Quan điểm của Viện kiểm sát N dân tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tòa phúc thẩm về việc giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, có 13 người làm chứng vắng mặt, tuy nhiên, Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng những người làm chứng vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xét xử vắng mặt những người này.

Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Võ Kim L về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo đề nghị hủy toàn bộ hoặc sửa về phần tội danh của bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HSST ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ngãi vì hành vi của bị cáo dùng dao đâm Nguyễn Duy N và Nguyễn Duy V là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận do nhận thức pháp luật hạn chế nên bị cáo nghĩ rằng hành vi của mình là gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, nhưng qua tranh tụng tại phiên tòa bị cáo nhận thấy cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội, không oan và bị cáo thay đổi kháng cáo chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và thành thật khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình; bị cáo thông qua người bào chữa tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại Nguyễn Duy N số tiền 10.000.000 đồng, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 được áp dụng thêm cho bị cáo. Xét đây là những tình tiết mới xuất hiện tại cấp phúc thẩm nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Võ Kim L từ 09 đến 12 tháng tù. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HSST ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ngãi.

Luận cứ bào chữa của Luật sư Trần Đức N cho bị cáo Võ Kim L: Luật sư hoàn toàn thống nhất với quan điểm về việc giải quyết vụ án của Đại diện Viện kiểm sát N dân tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, cần xem xét hành vi của bị cáo dùng dao đâm anh Nguyễn Duy N và anh Nguyễn Duy V thuộc trường hợp “phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra”. Vì bắt nguồn từ việc bị cáo Võ Kim L bị nhóm của Võ Văn A đánh vô cớ trước sảnh quán karaoke XX, nên bị cáo đánh trả lại Võ Văn A và sau đó được chủ quán karaoke XX kéo vào trong quầy thu ngân khóa cửa lại. Khi bị cáo đang đứng ở trong quầy thu ngân thì Nguyễn Duy N từ phòng hát karaoke số 2 đi ra đề nghị mở cổng ngõ nhưng không nói rõ mở cổng ngõ để làm gì, khiến bị cáo hiểu lầm nhóm của Nguyễn Duy N và Võ Văn A là đồng bọn với nhau và Nguyễn Quang T là người đi cùng với nhóm của Nguyễn Duy N liên tục thách đố với bị cáo, đồng thời, Nguyễn Duy N dùng tay đánh vào mặt của bị cáo khiến bị cáo bị kích động về tinh thần nên đánh trả lại Nguyễn Duy N và đóng cửa quầy thu ngân. Trong lúc bị cáo đứng trong quầy thu ngân thì Nguyễn Tấn B (bạn của bị cáo) đập vỡ cửa kính để dẫn bị cáo về, khi bị cáo vừa mở chốt cửa quầy thu ngân ra thì Nguyễn Duy N lại chủ động cầm cây ba khúc tấn công bị cáo. Qua nhiều lần bị tấn công, bị cáo bực tức mới dùng dao tấn công, đánh trả lại N và V. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s, e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

Luận cứ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Luật sư Phan Thanh V cho người bị hại Nguyễn Duy N: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Võ Kim L về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (có khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho nhiều người, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có thêm hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo và bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, mức hình phạt mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 06 năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Kim L, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 12/2018/HSST ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ngãi.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, có 13 người làm chứng vắng mặt, tuy nhiên, Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng những người làm chứng vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Xét tại cơ quan điều tra những người làm chứng này đã khai báo đầy đủ và việc vắng mặt của những người làm chứng không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xử vắng mặt những người này.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Kim L thay đổi nội dung kháng cáo, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, đồng thời, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Bản án sơ thẩm đã tuyên xử. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 25/7/2017, Võ Kim L sau khi hát karaoke ở quán XX chuẩn bị đi về, khi ra trước cổng quán thì L mâu thuẫn, đánh nhau với Võ Văn A nhưng không ai bị thương tích gì. Do lo sợ nhóm của Võ Văn A đánh nhau với Võ Kim L ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự của quán, nên chủ quán karaoke XX kéo L vào trong quầy thu ngân của quán và khóa cửa cổng lại không cho nhóm của A vào bên trong quán. Cùng thời điểm này, nhóm của Nguyễn Duy N, Nguyễn Quang T đang hát karaoke tại phòng hát số 2 của quán đi ra yêu cầu chủ quán mở cửa cổng để Đoàn Nhật N, Nguyễn Duy V vào hát karaoke, nhưng Võ Kim L cho rằng Võ Văn A điện thoại cho Nguyễn Duy N mở cửa để nhóm của A vào quán đánh L, nên không cho mở cửa và có lời nói thách thức với Nguyễn Duy N. Bực tức vì Võ Kim L không mở cửa và có lời nói thách thức, nên Nguyễn Duy N đã dùng tay đánh vào mặt L một cái, lúc này Võ Kim L rút dao đâm nhiều cái và dùng chân đạp một cái khiến N ngã ngửa ra trước sảnh quán. Thấy N bị đánh nên Nguyễn Duy V (em ruột của N) trèo cổng vào can ngăn thì bị Võ Kim L dùng dao đâm gây thương tích 3%, sau đó chủ quán karaoke đóng cửa quầy thu ngân không cho Nguyễn Duy N vào bên trong. Cùng thời điểm này, Nguyễn Tấn B (bạn của Võ Kim L) đi ngang qua quán karaoke XX thì biết L đang bị đánh nên B leo qua cổng ngõ vào bên trong quán đập vỡ cửa kính của quầy thu ngân để dẫn L về. Võ Kim L chủ động mở chốt cửa quầy thu ngân bước ra ngoài và ngay lập tức dùng dao tấn công về phía N, lúc này N cầm cây ba khúc (một đoạn kim loại có hình trụ tròn, chiều dài 77,3 cm, trọng lượng 610 gam) đánh vào đầu Võ Kim L gây thương tích 2%, liền lập tức Võ Kim L cầm dao đâm trúng bụng Nguyễn Duy N gây thương tích 49%. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Võ Kim L về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Kim L, thì thấy:

Xuất phát từ việc bị cáo Võ Kim L bị nhóm của anh Võ Văn A (Đ) đánh vô cớ trước sảnh quán karaoke XX, nên bị cáo đánh trả lại Võ Văn A và sau đó được chủ quán karaoke XX kéo bị cáo vào trong quầy thu ngân khóa cửa cổng lại. Khi bị cáo đang đứng ở trong quầy thu ngân thì Nguyễn Duy N từ phòng hát karaoke số 2 đi ra đề nghị mở cổng ngõ mục đích để Đoàn Nhật N và Nguyễn Duy V vào hát karaoke nhưng N không nói rõ với bị cáo mở cổng ngõ để làm gì, khiến bị cáo hiểu lầm nhóm của Nguyễn Duy N và Võ Văn A là đồng bọn với nhau, nên không mở cổng dẫn đến các bên cải vã, xô xát. Nguyễn Duy N cầm cây ba khúc đánh nhiều cái vào đầu và vào hông của bị cáo gây thương tích cho bị cáo 2% (hành vi phạm tội của Nguyễn Duy N đã bị xét xử tại bản án hình sự sơ thẩm số 06/2018/HSST ngày 01/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện H và bản án hình sự phúc thẩm số 65/2018/HSPT ngày 25/9/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi) còn bị cáo Võ Kim L dùng dao đâm gây thương tích cho bị cáo Nguyễn Duy N 49%.

Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo đề nghị hủy toàn bộ hoặc sửa về phần tội danh của bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HSST ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ngãi vì hành vi của bị cáo dùng dao đâm người bị hại Nguyễn Duy N và Nguyễn Duy V chỉ là hành vi gây thương tích vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, qua quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo nhận thấy cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội và không oan. Do trước kia bị cáo nhận thức pháp luật về mặt tội danh không đúng, nên bị cáo nghĩ rằng hành vi của bị cáo là không phạm tội hoặc chỉ phạm tội nhưng thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng nên bị cáo xin thay đổi nội dung kháng cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, đồng thời, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cũng thành thật khai báo toàn bộ về hành vi phạm tội của mình; thông qua người bào chữa bị cáo cũng tác động gia đình bồi thường cho người bị hại Nguyễn Duy N số tiền 10.000.000 đồng; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Xét đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới chưa có tại cấp sơ thẩm được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 được cấp phúc thẩm áp dụng thêm cho bị cáo.

Do tại phiên tòa có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Kim L, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HSST ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ngãi.

[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và Luận cứ bào chữa của Luật sư Trần Đức N phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

[5] Đề nghị của Luật sư Phan Thanh V không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên không được chấp nhận.

[6] Do chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Kim L, nên bị cáo Võ Kim L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Kim L. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HSST ngày 10/10/2018 của Tòa án N dân huyện H, tỉnh Quảng Ngãi.

Áp dụng: điểm c khoản 3 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Võ Kim L 05 (năm) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam (ngày 10/10/2018).

2. Bị cáo Võ Kim L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

413
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HS-PT ngày 28/02/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:09/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về