Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 25/07/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 25 tháng 7 năm 2019 tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 202/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 11/2019/QĐHPT-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lâm Thị Hồng C, sinh năm 1989 (có mặt)

Địa chỉ: Khóm A, Phường B, thị xã D, tỉnh Trà Vinh

Bị đơn: Ông Cao Văn L, sinh năm 1984 (vắng mặt)

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Cà Mau.

Chỗ ở: ấp E, xã L, thị xã D, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 11 năm 2018 và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn bà Lâm Thị Hồng C đã trình bày như sau:

- Về hôn nhân: bà và ông Cao Văn L tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn năm 2017 tại Ủy ban nhân dân phường B, thị xã D. Vợ chồng bà ở trọ tại Nhà trọ Ngọc Trâm thuộc Khóm X, Phường F, thị xã D nhưng vợ chồng bà chỉ sống hạnh phúc đến đầu tháng 6 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn thường xuyên cự cãi do ông L mỗi lần đi nhậu về kiếm chuyện vô cớ và đánh bà. Vì vậy, bà dẫn con về nhà cha mẹ ruột sống ly thân ông L cho đến nay. Còn ông L về ở trọ gần Cống đá thuộc ấp E, xã L, thị xã D. Trong thời gian ly thân, vợ chồng bà không gặp mặt nhau. Bà nhận thấy hôn nhân của vợ chồng bà không thể kéo dài. Mâu thuẫn của vợ chồng bà không thể nào hàn gắn được. Vì vậy, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Cao Văn L.

- Về con chung: Vợ chồng bà có 01 đứa con gái là: Cao Gia H, sinh ngày 16/12/2014. Con hiện đang sống với bà. Vì vậy, bà yêu cầu Tòa án cho bà được quyền nuôi con, không yêu cầu ông L cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: Bà Lâm Thị Hồng C không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Bà Lâm Thị Hồng C khai bà và ông Cao Văn L không có nợ chung.

Bị đơn ông Cao Văn L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án nhưng ông L không nộp cho Tòa án văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị Hồng C. Tòa án đã tiến hành tìm gặp ông Cao Văn L để lấy lời khai nhưng không gặp được ông L nên đã lập biên bản không lấy được lời khai của ông Cao Văn L. Ông L cũng được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai, chứng cứ và hòa giải hợp lệ hai lần nhưng ông L đều vắng mặt không có lý do nên không có lời trình bày của ông L trong quá trình giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn vắng mặt. Vì vậy, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến tại phiên tòa như sau:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật của Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử: Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử có mặt tại Tòa đã thực hiện đúng các thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án:

+ Về hôn nhân: Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả trình bày, hỏi tại phiên tòa, vị Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn ông Cao Văn L của bà Lâm Thị Hồng C.

+ Về con chung: Vị Kiểm sát viên đề nghị giao con cho là Cao Gia H, sinh ngày 16/12/2014 cho bà Lâm Thị Hồng C nuôi dưỡng.

+ Về cấp dưỡng nuôi con: bà Lâm Thị Hồng C không có yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

+ Về chia tài sản chung và nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

+ Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

- Về kiến nghị khắc phục: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: bà Lâm Thị Hồng C khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Cao Văn L và yêu cầu giải quyết việc nuôi con giữa bà C và ông L. Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn ông Cao Văn L có hộ khẩu thường trú tại ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Cà Mau nhưng ông L sinh sống tại ấp E, xã L, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ án, ông L vẫn còn sinh sống, làm việc tại ấp E, xã L, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh có thẩm quyền giải quyết vụ án.

[3] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Cao Văn L là bị đơn đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không vì trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng. Ông L cũng không có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét ý kiến của nguyên đơn, Kiểm sát viên và căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt ông Cao Văn L.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lâm Thị Hồng Cvà ông Cao Văn L tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn năm 2017 tại UBND phường B, thị xã Duyên Hải theo đúng quy định pháp luật. Vì vậy, hôn nhân của bà C và ông L là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Theo bà C trong thời gian chung sống, giữa bà C và ông L có xảy ra mâu thuẫn do ông L mỗi lần đi nhậu về kiếm chuyện vô cớ và đánh bà. Kết quả xác minh của Tòa án về mâu thuẫn của bà C và ông L thể hiện việc bà C và ông L có xảy ra mâu thuẫn là có thật nhưng nguyên nhân cụ thể là gì thì người được xác minh không biết rõ. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tổ chức hòa giải tạo điều kiện để bà C, ông L đoàn tụ tiếp tục chung sống nhưng bà C vẫn cương quyết ly hôn ông L. Còn ông L thì đều vắng mặt tại các phiên họp hòa giải mà không có lý do chính đáng. Khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử, mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông L đều vắng mặt. Hội đồng xét xử thấy rằng vợ chồng muốn được hạnh phúc là phải cùng yêu thương nhau, cùng chung sống và cùng mong muốn xây đắp gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên sau khi Tòa án tổ chức hòa giải, bà C một mực cương quyết yêu cầu ly hôn ông L vì cho rằng không còn tình cảm với ông L và không muốn tiếp tục chung sống với ông L. Tại phiên tòa, bà C vẫn cương quyết muốn ly hôn ông L. Điều này cho thấy khả năng để bà C và ông L đoàn tụ để chung sống là rất khó thực hiện được. Bà C và ông L hiện tại đang sống ly thân. Trong thời gian này, ông L và bà C cũng không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Từ đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn ông Cao Văn L của bà Lâm Thị Hồng C như đề nghị của vị Kiểm sát viên.

[5] Về nuôi con: Bà Lâm Thị Hồng C và ông Cao Văn L có con chung là Cao Gia H, sinh ngày 16/12/2014. Hội đồng xét xử xét thấy rằng tình yêu thương của cha mẹ dành cho con là như nhau. Việc giao cháu H cho bà C hay ông L nuôi phải trên cơ sở bên nào đảm bảo quyền lợi tốt nhất dành cho cháu H. Tuy nhiên, cháu H sống chung với bà C. Trong thời gian bà C và ông L ly thân, bà C vẫn nuôi dưỡng tốt cháu H. Từ những phân tích như trên, Hội đồng xét xử thấy rằng việc giao cháu Cao Gia H cho bà Lâm Thị Hồng C tiếp tục trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định pháp luật, đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho cháu H.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Lâm Thị Hồng C là người được giao nuôi cháu Cao Gia H nhưng không yêu cầu cấp dưỡng cháu H nên Hội đồng xét xử không xem xét. Sau khi ly hôn, bà Lâm Thị Hồng C có quyền yêu cầu ông Cao Văn L cấp dưỡng nuôi cháu Cao Gia H theo quy định của pháp luật.

[7] Về tài sản chung: Bà Lâm Thị Hồng C không có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng; ông Cao Văn L chưa có ý kiến chia tài sản chung của vợ chồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận và không xem xét giải quyết.

[8] Về nợ: Bà Lâm Thị Hồng C khai bà và ông Cao Văn L không có nợ chung; ông Cao Văn L chưa có ý kiến về nợ chung với bà C nên Hội đồng xét xử ghi nhận và không xem xét giải quyết.

[9] Về án phí: Bà Lâm Thị Hồng C không thuộc trường hợp được miễn, giảm án phí hoặc không phải nộp án phí. Vì vậy, bà C là nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (ly hôn) là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lâm Thị Hồng C. Bà Lâm Thị Hồng C được ly hôn ông Cao Văn L.

2. Về con chung: Giao cháu Cao Gia H, sinh ngày 16/12/2014 cho bà Lâm Thị

Hồng C tiếp tục trông nom, nuôi dưỡng và giáo dục. Không ai được quyền cản trở bà Lâm Thị Hồng C và ông Cao Văn L trong việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục và thăm nom con.

Vì lợi ích của cháu Cao Gia H, khi cần thiết và có yêu cầu của ông Cao Văn L hoặc cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định, Tòa án sẽ xem xét giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

Nếu ông Cao Văn L lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì bà Lâm Thị Hồng C có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế việc thăm nom con của ông Cao Văn L theo quy định pháp luật.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: bà Lâm Thị Hồng C là người được giao nuôi cháu Cao Gia H nhưng bà C không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Sau khi ly hôn, bà Lâm Thị Hồng C có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con là ông Cao Văn L cấp dưỡng nuôi cháu Cao Gia H theo quy định pháp luật.

4. Về tài sản chung: Bà Lâm Thị Hồng C không yêu cầu và ông Cao Văn L chưa yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Sau khi ly hôn, nếu bà Lâm Thị Hồng C và ông Cao Văn L có tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân thì bà C hoặc ông L có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

5. Về nợ: Bà Lâm Thị Hồng C khai không có; ông Cao Văn L chưa khai có nợ ai nên ghi nhận ý kiến và không xem xét.

6. Về án phí: Buộc bà Lâm Thị Hồng C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (ly hôn) là 300.000 đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số: 0019491 ngày 03/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Duyên Hải. Như vậy, bà Lâm Thị Hồng C đã nộp xong án phí. Ông Cao Văn L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

7. Nguyên đơn bà Lâm Thị Hồng C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn ông Cao Văn L vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 25/07/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duyên Hải - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về