Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 23/01/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/01/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 534/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2018 về “tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 452/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thúy N, sinh năm 1996; cư trú tại: Ấp NN, xã TP, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Anh Huỳnh Văn N, sinh năm 1991; cư trú tại: Ấp CĐ, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nguyễn Thị Thúy N trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thúy N và anh Huỳnh Văn N chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn vào năm 2015 tại Ủy ban nhân dân xã Trần Phán, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, hôn nhân tự nguyện. Trong quá trình chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn do anh N không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con dẫn đến thường xuyên cự cãi, gia đình hai bên đã hòa giải hàn gắn nhiều lần nhưng không thành và ly thân đến nay trên một năm. Chị N yêu cầu ly hôn với anh N.

Về con chung: Anh chị có một người con chung tên Huỳnh Thị Thúy A, sinh ngày 16/6/2016. Tại đơn khởi kiện, chị N yêu cầu được nuôi con, yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Tại phiên họp cũng như phiên Tòa, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề con chung.

Về tài sản chung: Gồm có 06 chỉ vàng 24k được cha mẹ chồng tặng cho trong ngày cưới, 02 cặp gối trị giá 500.000 đồng, quần áo nữ và vải chưa may khoảng 10 bộ trị giá 500.000 đồng, 01 vali kéo trị giá 200.000 đồng, các tài sản trên do anh N quản lý. Tại đơn khởi kiện, chị N yêu cầu chia 06 chỉ vàng 24k, anh chị mỗi người hưởng 03 chỉ vàng 24k và yêu cầu được nhận toàn bộ 02 cặp gối, quần áo nữ và vải chưa may, 01 vali kéo. Tại phiên họp cũng như phiên Tòa, chị N rút lại toàn bộ yêu cầu phân chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ: Chị N xác định không có.

Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh N nhưng anh từ chối nhận và có ý kiến như sau: Về hôn nhân: Anh đồng ý ly hôn với chị N. Về con chung và tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh N đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh N là phù hợp.

[2] Về hôn nhân: Chị N và anh N chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn vào năm 2015 tại Ủy ban nhân dân xã TP, hôn nhân tự nguyện theo đúng quy định nên được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Xét nguyên nhân mâu thuẫn: Theo chị N xác định nguyên nhân mâu thuẫn do anh N không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con dẫn đến anh chị thường xuyên cự cãi , gia đình hai bên đã hòa giải hàn gắn nhiều lần nhưng không thành . Đối với anh N, từ khi thụ lý đến khi giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng nhưng anh N từ chối nhận và theo biên bản từ chối nhận văn bản tố tụng anh N đồng ý ly hôn với chị N, điều này thể hiện anh không có thiện chí để hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng và theo chị N xác định anh chị đã ly thân đến nay trên một năm. Xét mâu thuẫn của anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình cho chị N được ly hôn anh N.

[3] Về con chung: Tại đơn khởi kiện, chị N yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Huỳnh Thị Thúy A và yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên tại phiên họp cũng như tại phiên Tòa chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề con chung và anh N cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thấy, việc chị N thay đổi yêu cầu khởi kiện là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết vấn đề con chung.

[4] Về tài sản chung: Tại đơn khởi kiện, chị N yêu cầu chia 06 chỉ vàng 24k, anh chị mỗi người nhận 03 chỉ vàng 24k và yêu cầu được nhận 02 cặp gối, quần áo nữ và vải, 01 vali kéo. Tại phiên họp cũng như tại phiên Tòa, chị N rút toàn bộ yêu cầu phân chia tài sản trên, anh N cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thấy, việc chị N rút yêu cầu phân chia tài sản chung là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ đối với yêu cầu phân chia 06 chỉ vàng 24k, 02 cặp gối, quần áo nữ và vải, 01 vali kéo.

[5] Về nợ: Chị N và anh N xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là phù hợp.

[6] Về án phí: Chị N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 244 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51 và Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Nguyễn Thị Thúy N. Cho chị Nguyễn Thị Thúy N được ly hôn anh Huỳnh Văn N.

2. Về tài sản chung: Đình chỉ đối với yêu cầu phân chia 06 chỉ vàng 24k, 02 cặp gối, quần áo nữ, vải và 01 vali kéo.

3. Về án phí:

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thúy N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0008792 ngày 05 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi; chị N đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thúy N không phải chịu. Chị N đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0008793 ngày 05 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi được nhận lại.

Chị Nguyễn Thị Thúy N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Huỳnh Văn N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 23/01/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về