Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 22/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 22 tháng 4 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2019/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 01 năm 2019 “ V/v tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2019/QĐST- HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Tạ Thị N, sinh năm 1983 (có mặt). Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.

Bị đơn: Anh Nguyễn Thiên Q, sinh năm 1979 (vắng mặt). Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.

Hiện tại, đang chấp hành án tại Trại giam N, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 24/12/2018 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Tạ Thị N trình bày:

Chị và anh Q kết hôn với nhau ngày 13/02/2004 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Y. Thời gian đầu anh chị chung sống hạnh phúc, về sau phát sinh mâu thuẫn theo chị N là do anh Q thường đánh đập chị phải vào viện nhưng anh Q không thăm hỏi gì. Năm 2013, anh Q phạm tội “Giết người” bị Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt 20 năm tù. Hiện tại, anh Q đang chấp hành án tại Trại giam N, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Chị thấy không còn tình cảm với anh Q nên đề nghị được ly hôn.

Bị đơn anh Nguyễn Thiên Q trình bày: Về thời điểm kết hôn, nơi đăng ký kết hôn, quá trình chung sống vợ chồng như chị N đã trình bày. Anh Q thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn nhưng sau đó vợ chồng lại hòa hợp. Hiện tại, anh đang phải chấp hành án tại Trại giam N, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Anh Q đồng ý ly hôn với chị N.

Về con chung: Chị N và anh Q có 01 con chung là Nguyễn Thiên T, sinh ngày 27/11/2004, hiện nay cháu T đang ở cùng chị N. Ly hôn, chị N đề nghị được nuôi dưỡng cháu T và không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Q không đề nghị gì về con chung.

Về tài sản, các khoản cho vay, khoản nợ và các vấn đề khác: Chị N và anh Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Viện kiểm sát: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Tạ Thị N và giao cho cho chị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thiên T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng công khai tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Quan hệ giữa chị N và anh Q là vợ chồng, chị N có đơn đề nghị ly hôn, do vậy xác định quan hệ tranh chấp là “Hôn nhân và gia đình” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.

Xét về yêu cầu của nguyên đơn:

[2]. Về tình cảm: Chị N và anh Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu, anh chị chung sống hạnh phúc về sau phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Q hay đánh đập chị N. Chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị được ly hôn, anh Q cũng đồng ý. Xét thấy, tình cảm vợ chồng giữa chị N và anh Q đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài. Do vậy, cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị N và anh Q là có căn cứ.

[3]. Về con chung: Chị N và anh Q có 01 con chung là cháu Nguyễn Thiên T, sinh ngày 27/11/2004, hiện nay đang ở cùng chị N. Ly hôn, chị N đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu T và không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con chung, anh Q không có đề nghị gì về con chung.

Xét thấy, việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên sau ly hôn là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ. Tuy nhiên, anh Q đang phải chấp hành án tại trại giam Nà Tấu nên không thể trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu T được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị N là phù hợp. Do chị N không yêu cầu nên anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

[4]. Về tài sản, các khoản vay, cho vay và công sức đóng góp: Chị N và anh Q không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6]. Về án phí: Chị Tạ Thị N phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 55; Điều 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Tạ Thị N và anh Nguyễn Thiên Q.

2/ Về con chung: Giao cho chị Tạ Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thiên T, sinh ngày 27/11/2004 cho đến khi thành niên, anh Nguyễn Thiên Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3/ Về án phí: Chị Tạ Thị N phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2017/0000612 ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Y.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án, thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án, thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 22/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về