Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 18/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN 

Ngày18 tháng 10 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 151/2019/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2019 về việc Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2019/QĐXX-ST ngày 03 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị T, sinh năm 1981 Trú tại: thôn Vĩnh Phú, xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, có mặt

2. Bị đơn: Anh Hoàng Văn Tr, sinh năm 1974 Trú quán: thôn Vĩnh Phú, xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai ngày 11/9/2019 và tại phiên tòa chị Võ Thị T trình bày: Chị T và anh Hoàng Văn Tr kết hôn với nhau vào ngày 19/7/1999, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, trên cơ sở tự nguyện và tự do tìm hiểu, vợ chồng có 02 con chung. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống với bố mẹ chồng tại thôn Vĩnh Phú, xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên. Tình cảm vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn, do anh Tr thường xuyên rượu chè, bài bạc, đánh đập vợ con, từ đó vợ chồng xẩy ra cải vả, dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị Võ Thị T làm đơn xin ly hôn với anh Hoàng Văn Tr.

Còn bị đơn anh Hoàng Văn Tr tại biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa hôm nay anh Tr trình bày: Anh Tr cũng đồng ý về thời gian, địa điểm kết hôn như chị T trình bày. Tuy nhiên, anh Tr không đồng ý ly hôn vì anh cho rằng anh vẫn còn tình cảm với chị T.

- Về con chung: Tại phiên tòa và tại hồ sơ chị Võ Thị T và anh Hoàng Văn Tr trình vợ chồng có 02 con chung là cháu Hoàng Thị Diệp, sinh ngày 29/3/2001 và cháu Hoàng Thị L, sinh ngày 13/7/2003. Cháu Diệp đã trưởng thành và có gia đình riêng còn cháu L hiện nay đang sống với anh Tr tại xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên. Hà Tĩnh.

Tại biên bản hòa giải và tại phiên tòa thì chị Võ Thị T và anh Hoàng Văn Tr đều thống nhất thỏa thuận giao con Hoàng Thị L, sinh ngày 13/7/2003 cho anh Tr trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng anh Tr không yêu cầu chị T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Võ Thị T và anh Hoàng Văn Tr đều thống nhất tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng không nợ ai cũng như không ai nợ vợ chồng nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và chị Võ Thị T, anh Hoàng Văn Tr đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 53, Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 xử: Chấp nhận cho chị Võ Thị T được ly hôn anh Hoàng Văn Tr; về con cái: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự giao cháu Hoàng Thị L, sinh ngày 13/7/2003 cho anh Tr trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục, chấp nhận nguyện vọng của anh Tr không yêu cầu chị T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Chị Võ Thị T được quyền đi lại thăm nom và chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở, ngăn cấm.

Về tài sản, về nợ: Chị T và anh Tr tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên đề nghị HĐXX không xem xét.

Về án phí: Chị Võ Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu về đường lối giải quyết vụ án cũng như việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng.

[1]. Về thẩm quyền: Chị Võ Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con chung sau khi ly hôn đối với anh Hoàng Văn Tr, hiện tại chị T và anh Tr đều có hộ khẩu đăng ký thường trú tại thôn Vĩnh Phú, xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của chị Võ Thị T cùng với chứng cứ do chị T cung cấp thì chị Võ Thị T và anh Hoàng Văn Tr kết hôn với nhau theo quy định của pháp luật đặng ký kết hôn tại UBND xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên. Tuy nhiên sau một thời gian thì hai người phát sinh mâu thuẫn do anh rượu chè, cờ bạc, đánh đập vợ con, dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày một rạn nứt, nay hai người đã sống ly thân chị T đã về bên bố mẹ đẻ sinh sống. Do đó mục đích hôn nhân không đạt được, chị T có nguyện vọng xin được ly hôn để giải phóng cho hai người. Tại biên bản hòa giải và tại phiên tòa hôm nay anh Tr không đồng ý ly hôn vì cho rằng tình cảm vợ chồng vẫn còn nhưng anh Tr không đưa ra được biện pháp gì đển níu kéo, hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị T. Còn chị T thì chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị T vẫn nhất quyết ly hôn.

Vào ngày 24/9/2019 Tòa án triệu tập anh Tr đến làm việc nhưng anh Tr không đến Tòa để làm việc, sau đó Tòa án đã tiến hành về tại địa phương làm việc vào ngày 3/10/2019. Như vậy mục đích hôn nhân là xây dựng tổ ấm gia đình, sinh con và nuôi dạy con cái nên người, tạo lập kinh tế để duy trì và phát triển đời sống. Khi mâu thuẫn xẩy ra chị T đã cố gắng để phân tích sai đúng, khuyết điểm tồn tại của anh Tr để tìm giải pháp tốt nhất và nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thành. Mà trái lại với bản tính cố chấp không thay đổi dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được nên chị T đã làm đơn xin ly hôn và tha thiết chấm dứt mối quan hệ hôn nhân giữa chị và anh Tr là hoàn toàn phù hợp. Đối với anh Tr tuy không muốn ly hôn nhưng anh không đưa ra được biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử xét thấy thực tế tình cảm vợ chồng của hai người đã thật sự tan vỡ, không thể hàn gắn được. Nghĩ cần áp dụng khoản 1 điều 51, điều 54, điều 56, điều 57 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Võ Thị T được ly hôn với anh Hoàng Văn Tr.

[3]. Về con chung: Tại hồ sơ và trước phiên Tòa hôm nay chị Võ Thị T và anh Hoàng Văn Tr đều thống nhất trong quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung, cháu Hoàng Thị Diệp, sinh năm 2001 đã trưởng thành và có gia đình riêng. Còn cháu Hoàng Thị L thì quá trình hòa giải và tại phiên tòa vợ chồng thống nhất thỏa thuận giao cháu Hoàng Thị L, sinh ngày 13/7/2003 cho anh Tr trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, anh Tr không yêu cầu chị T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con, mặt khác nguyện vọng của cháu L là được ở với anh Tr. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận nguyện vọng của cháu L, của chị T và anh Tr là giao Hoàng Thị L, sinh ngày 13/7/2003 cho anh Hoàng Văn Tr trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[4]. Về tài sản chung và nợ: Chị Võ Thị T và anh Hoàng Văn Tr tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên HĐXX không xem xét.

[5]. Về án phí: Chị Võ Thị T phải nộp 300.000 đ án phí ly hôn sơ thẩm.

[6]. Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39; khoản 4 Điều 147, điều 177, điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 53, Khoản 1 Điều 56, điều 57, điều 58, điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Điểm a khoản 1 điều 24; Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[1]. Về tình cảm: Xử cho chị Võ Thị T được ly hôn với anh Hoàng Văn Tr.

[2]. Về con cái: Công nhận sự thỏa thuận của chị Võ Thị T và anh Hoàng Văn Tr giao cháu Hoàng Thị L, sinh ngày 13/7/2003 cho anh Hoàng Văn Tr trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục, anh Tr không yêu cầu chị T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Chị Võ Thị T có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cấm.

[3]. Về án phí: Buộc chị Võ Thị T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nhưng được khấu trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0003374 ngày 11/9/2019 tại Chi cục thi hành án huyện Cẩm Xuyên. Tiền án phí ly hôn sơ thẩm chị T đã nộp đủ.

[4]. Quyền kháng cáo bản án. Nguyên đơn chị Võ Thị T, bị đơn anh Hoàng Văn Tr mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 18/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về