Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 15/03/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 15/3/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 2498/2018/TLST - HNGĐ ngày 17/12/2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/02/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn : Bà Lê Thị Mỹ Th, sinh năm 1991.

Địa chỉ: P. B, quận B, TP. H.

- Bị đơn : Ông Nguyễn Anh V, sinh năm 1988. Địa chỉ: KP. B, phường B, TP. B, tỉnh Đ.

(Bà Th và ông V có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời trình bày tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 25/01/2019 của nguyên đơn là bà Lê Thị Mỹ Th thì bà và ông Nguyễn Anh V xây dựng gia đình với nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND phường B, TP. B trên cơ sở cả hai tự nguyện.

Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến tháng 03 năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không còn hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, ông V thường xuyên ăn nhậu với bạn bè, không quan tâm đến gia đình. Vì không muốn gia đình đổ vỡ, bà đã nhiều lần khuyên ngăn ông V và tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng cho đến nay mâu thuẫn vợ chồng không được cải thiện mà ngày càng trở lên trầm trọng. Do mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được nên bà đã chuyển về nhà Cha, mẹ ở TP. H và sống ly thân với ông V khoảng 02 năm nay, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông V để trả tự do cho nhau.

Về con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo bản tự khai ngày 07/01/2019 của bị đơn là ông Nguyễn Anh V thì ông và bà Lê Thị Mỹ Th xây dựng gia đình với nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND phường B, TP. B trên cơ sở cả hai tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không còn hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra sung đột. Do mâu thuẫn vợ chồng không được cải thiện mà ngày càng trở lên trầm trọng nên ông và bà Th đã sống ly thân khoảng 02 năm nay, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được bà Th xin ly hôn thì ông cũng đồng ý vì có níu kéo cũng không hạnh phúc.

Về con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Lê Thị Mỹ Th; Về con chung: Không có nên không đặt là xem xét, giải quyết; Về tài sản chung: Cả bà Th và ông V không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết; Về nợ chung: Không có nên không đặt là xem xét, giải quyết; Về án phí: Bà Th phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Nguyễn Anh V hiện cư trú tại địa bàn TP. Biên Hòa nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nguyên đơn bà Lê Thị Mỹ Th và bị đơn ông Nguyễn Anh V đến Tòa án để tham gia các buổi làm việc, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như xét xử nhưng bà Th và ông V đều có bản tự khai, đơn xin vắng mặt. Vì vậy, căn cứ theo qui định tại các Điều 207; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành đưa vụ án xét xử vắng mặt bà Th và ông V.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Th và ông V xây dựng gia đình với nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND phường B, TP. B trên cơ sở cả hai tự nguyện nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án, Hội đồng xét xử đã tiến hành hòa giải, hàn gắn đoàn tụ nhưng bà Th xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và cương quyết xin ly hôn với ông V để trả tự do cho nhau. Tại bản tự khai ngày 07/01/2019 ông V trình bày quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không còn hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra sung đột và do mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được mà ngày càng trở lên trầm trọng nên ông và bà Th đã sống ly thân khoảng 02 năm nay, không ai còn quan tâm đến ai nữa, bà Th xin ly hôn thì ông cũng đồng ý. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Th và ông V đã xảy ra trong khoảng thời gian dài, hiện cả hai đã không còn chung sống với nhau. Như vậy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Th và ông V là có thật và đã thật sự trầm trọng, có tạo điều kiện về thời gian cho cả hai hàn gắn, đoàn tụ cũng không đạt kết quả.

Do vậy, căn cứ theo qui định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Th, giải quyết cho bà Th được ly hôn ông V.

[4] Về con chung: Không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết [6] Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Bà Th phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 207; khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 238 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng các Điều 51, 54, 56 và 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Thị Mỹ Th.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Mỹ Th được ly hôn với ông Nguyễn Anh V.

Về con chung: Không có, không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về tài sản chung: Không có yêu cầu, không đặt ra xem xét, giải quyết Về nợ chung: Không có, không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về án phí: Bà Lê Thị Mỹ Th phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 009387 ngày 02/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Biên Hòa.

Bà Th, ông V được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 15/03/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về