Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 09/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 09 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 160/2018/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: anh Nguyễn Trường G, sinh năm: 1984;

Nơi cư trú: tổ dân phố C, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Bị đơn: chị Phan Thị Cẩm N, sinh năm: 1989;

Nơi cư trú: tổ dân phố C, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 21 tháng 11 năm 2018 và bản tự khai, nguyên đơn, anh Nguyễn Trường G trình bày: anh và chị Phan Thị Cẩm N có quá trình tìm hiểu và đi đến hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vào ngày 13 tháng 9 năm 2010. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cuộc sống vất vả nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Đến năm 2016, chị N bỏ về nhà bố mẹ đẻ và vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không ai còn quan tâm hay hỏi han gì đến ai. Nay, anh nhận thấy tình cảm đối với chị N không còn nên có nguyện vọng mong muốn được ly hôn với chị N để sớm ổn định cuộc sống của bản thân.

Về con chung, quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là Nguyễn Thuỳ L, sinh ngày 02 tháng 3 năm 2011 và Nguyễn Công T, sinh ngày 21/07/2015. Nếu ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi con Nguyễn Công T và giao con Nguyễn Thuỳ L cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tống đạt các văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, giấy triệu tập nhiều lần cho chị N nhưng chị N không có mặt tại Toà án để giải quyết. Kết quả xác minh tại Uỷ ban nhân dân (UBND) phường Q, chị N hiện có hộ khẩu thường trú tại phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Tuy nhiên, năm 2016 chị N có trở về nhà bố mẹ đẻ tại xã Q. UBND xã Q đã nhận được các văn bản tố tụng của Toà án và cử người đến nhà tống đạt các văn bản tố tụng trên cho chị N, nhưng do chị N hiện đang đi làm ăn xa nên uỷ ban đã giao lại cho bố đẻ chị N là ông Phan Đình H và ông H cam đoan sẽ giao lại cho chị N. Ngày 27 tháng 3 năm 2019, Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập anh G, chị N đến tham gia phiên toà vào ngày 10 tháng 4 năm 2019, nhưng chị N vắng mặt nên Toà án phải hoãn phiên toà. Ngày 09 tháng 5 năm 2019, Toà án tiếp tục mở phiên toà lần hai và triệu tập các bên đương sự đến tham gia phiên toà nhưng chị N vẫn vắng mặt. Qua xác minh tại UBND xã Q và ông Phan Đình H (bố đẻ chị N) xác định: Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên toà, các giấy triệu tập đến phiên toà của Toà án đã được Uỷ ban và gia đình tống đạt hợp lệ cho chị N.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã B tham gia phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định pháp luật, việc chấp hành của nguyên đơn từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án không có gì sai phạm, bị đơn không chấp hành việc thông báo, triệu tập của Toà án gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.

- Về nội dung: Đề nghị căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt chị Phan Thị N; căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho anh Nguyễn Trường G được ly hôn với chị Phan Thị N, giao con Nguyễn Công T cho anh G trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Thuỳ L cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về thẩm quyền: Anh Nguyễn Trường G có đơn yêu cầu xin ly hôn với chị Phan Thị Cẩm N. Hiện tại chị N đang có hộ khẩu thường trú tại: tổ dân phố C, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vì vậy, theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã B.

- Về sự vắng mặt của bị đơn: Tại phiên toà vắng mặt bị đơn chị Phan Thị Cẩm N. Xét thấy, bị đơn đã được Toà án nhân dân thị xã B triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy, cần căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227của Bộ luật tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt chị Phan Thị Cẩm N.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Anh G và chị N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nên quan hệ hôn nhân của hai người là hoàn toàn hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cuộc sống vất vả nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, mâu thuẫn kéo dài không giải quyết được nên vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay và cũng không quan tâm gì đến nhau nên tình cảm không còn. Quá trình giải quyết vụ án, anh G kiên quyết xin được ly hôn với chị N. Xét thấy, anh G và chị N sống ly thân đã 03 năm nay, không ai quan tâm đến ai, tình cảm không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh G, căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho anh G được ly hôn với chị N là phù hợp.

[3] Về quan hệ con chung:

Quá trình chung sống anh G và chị N có 02 con chung như anh G đã trình bày. Nếu ly hôn anh G có nguyện vọng được nuôi con là Nguyễn Công T và giao con Nguyễn Thuỳ L cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Quá trình xác minh, gia đình chị N cho biết, chị N hiện đang đi làm ăn xa, cháu Nguyễn Thuỳ L đang ở cùng với chị N. Xét thấy cháu Nguyễn Công T hiện đang ở với anh G, cháu Nguyễn Thuỳ L hiện tại đang ở cùng mẹ từ ngày anh chị sống ly thân đến nay, đã ổn định cuộc sống và học tập. Vì vậy cần căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và Gia đình giao con chung Nguyễn Công T cho anh G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; giao con chung Nguyễn Thuỳ L cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về quan hệ tài sản chung:

Quá trình giải quyết vụ án, anh G trình bày vợ chồng không có tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí:

Anh G phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm b khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, khoản 1 và khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Xét xử vụ án vắng mặt bị đơn chị Phan Thị Cẩm N

2. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Nguyễn Trường Gi, xử cho anh Nguyễn Trường Gi được ly hôn với chị Phan Thị Cẩm N.

3. Về quan hệ con chung: Xử giao con chung là Nguyễn Công T, sinh ngày 21 tháng 7 năm 2015 cho anh G được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; giao con chung là Nguyễn Thuỳ L, sinh ngày 02 tháng 3 năm 2011 cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

4. Về quan hệ tài sản chung: Không xem xét.

5. Về án phí sơ thẩm: Anh Nguyễn Trường G phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn để sung vào công quỹ Nhà nước nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà chị đã nộp trước đây tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002289 ngày 06 tháng 12 năm 2019. Anh G đã nộp đủ tiền án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm, nguyên đơn có quyền kháng cáo kể từ ngày tuyên sơ thẩm, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 09/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về