Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 03/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 03 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 40/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2019 về việc: “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Ngọc B Sinh năm: 1974.

Đa chỉ: 14/3, Tổ A, Khu phố B, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thu H Sinh năm: 1979.

Đa chỉ: Số 31A, Đường A, Khu phố B, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bà H vắng mặt, ông B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12/6/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Ngọc B trình bày:

Ông B và bà Nguyễn Thị Thu H chung sống với nhau từ năm 1998, đến năm 2012 thì đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 37, quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân phường A, Quận B cấp ngày 13/01/2012. Việc chung sống với nhau là hoàn toàn tự nguyện.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc. Mâu thuẫn giữa vợ chồng phát sinh từ khoảng vài năm sau đó. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do 02 vợ chồng không H hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến hay cãi vả, lớn tiếng, cuộc sống gia đình không hạnh phúc. Hiện nay, ông bà đã sống ly thân. Ông B nhận thấy mâu thuẫn giữa hai vợ chồng là trầm trọng, bà H đã vi phạm nghĩa vụ của người vợ, mục đích hôn nhân không đạt được. Ông B xác định không còn tình cảm với bà H và yêu cầu được ly hôn với bà H.

Về con chung: Ông B và bà H có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc M, sinh ngày 03/10/1998 và Nguyễn Văn Ngọc T, sinh ngày 07/4/2001. Ông B yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc và giáo dục cả 02 con chung và không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H mặc dù đã được Tòa án tống đạt đầy đủ và hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt trong quá trình tiến hành tố tụng nên Tòa án không thu thập được ý kiến trình bày của bà H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng. Các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ông Nguyễn Văn Ngọc B yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Thu H nên căn cứ quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thì quan hệ tranh chấp trong vụ án được xác định là “Tranh chấp ly hôn”.

Bị đơn là bà Nguyễn Thị Thu H có nơi cư trú tại địa chỉ: Số 31A, Đường 25, Khu phố 2, phường Bình Trưng Đông, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng triệu tập bị đơn là bà Nguyễn Thị Thu H đến Tòa án tham gia phiên tòa vào ngày 12/4/2019 và ngày 03/5/2019, nhưng bà H vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà H.

Xét đơn xin vắng mặt tại phiên tòa của ông B là đúng theo quy định của pháp luật và việc ông B vắng mặt tại phiên tòa không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông B.

[3] Về yêu cầu của đương sự:

Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của ông Nguyễn Văn Ngọc B, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định ông Nguyễn Văn Ngọc B và bà Nguyễn Thị Thu H tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 37, quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân phường An Khánh, Quận 2 cấp ngày 13/01/2012. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa ông B và bà H là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật B vệ.

Căn cứ lời khai, lời trình bày của ông B trong quá trình giải quyết vụ án thì trong quá trình chung sống giữa ông B và bà H phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do 02 vợ chồng không H hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến hay cãi vả, lớn tiếng, cuộc sống gia đình không hạnh phúc, bà H đã vi phạm nghĩa vụ của người vợ. Hiện nay, ông bà đã sống ly thân. Ông B xác định tình cảm giữa hai vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, hôn nhân không thể kéo dài. Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống vợ chồng dựa trên tình yêu thương và trách nhiệm của vợ chồng với nhau, với gia đình và con cái. Tuy nhiên, giữa ông B và bà H thường xuyên mâu thuẫn, cải vã, bà H không chăm lo cho gia đình, con cái là vi phạm nghĩa vụ của vợ làm cho mục đích hôn nhân không đạt được.

Theo kết quả trả lời của Ủy ban nhân dân phường A, Quận B tại Phiếu yêu cầu xác minh số 40/PYCXM ngày 12/3/2019 của Tòa án nhân dân Quận 2 thì: “Qua xác minh tại khu phố đ ợc biết ông Nguyễn Văn Ngọc B và bà Nguyễn Thị Thu H hiện nay không còn chung sống với nhau tại: Số 31A, Đ ờng A, Khu phố B, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Về hành vi bạo lực gia đình thì UBND phường chưa có hồ sơ xử lý…”.

Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị Thu H mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này cho thấy bà H đã không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân giữa bà và ông B. Do đó, có căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa ông B và bà H là trầm trọng, tình cảm yêu thương vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài. Vì vậy, yêu cầu của ông B xin ly hôn với bà H là có cơ sở, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Căn cứ vào các Giấy khai sinh và lời trình bày của ông B, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định ông B và bà H có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc Mai, sinh ngày 03/10/1998 và Nguyễn Văn Ngọc Tài, sinh ngày 07/4/2001. Do 02 con chung hiện nay đang chung sống ổn định với ông B và ông B có đủ khả năng, điều kiện để chăm lo cho cuộc sống của các con. Bên cạnh đó, theo bản tự khai trình bày ý kiến thì cả 02 cháu đều có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với bố là ông B. Do đó, yêu cầu của ông B được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 con chung là có căn cứ, đảm B quyền lợi về mọi mặt cho 02 con chung, phù hợp với quy định tại khoản 1, 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Ghi nhận sự tự nguyện của ông B về việc không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, ông B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí sơ thẩm: Do ông Nguyễn Văn Ngọc B là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Bà Nguyễn Thị Thu H không phải chịu án phí.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Luật Thi hành án dân sự;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Ngọc B:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn Ngọc B được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thu H.

Về con chung: Giao 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc Mai, sinh ngày 03/10/1998 và Nguyễn Văn Ngọc Tài, sinh ngày 07/4/2001 cho ông Nguyễn Văn Ngọc B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ông B không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con chung.

Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi; có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí:

Án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng do ông Nguyễn Văn Ngọc B phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông B đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số AA/2017/0016009 ngày 21/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 2. Ông B đã nộp đủ án phí. Bà H không phải chịu án phí.

3. Về quyền kháng cáo:

Ông Nguyễn Văn Ngọc B và bà Nguyễn Thị Thu H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 uật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 03/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về