Bản án 09/2018/HS-ST ngày 21/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN D, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 09/2018/HS-ST NGÀY 21/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2018, đối với bị cáo:

Nguyễn Tùng D, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1985 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: số 12/228 T, phường V, quận L, Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 12a4, Ngõ 41 K, phường V, quận L, Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức L và bà Bùi Thị Đ; có vợ là: Nguyễn Thị T, có 01 con sinh năm 2015; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Án số 236/HSST ngày 27/8/2003 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù về tội Cướp tài sản (đã xóa án tích) bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/3/2018 đến ngày 15/3/2018 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Thành N, vắng mặt .

- Chị Mai Thị Thanh T, vắng mặt .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15h ngày 13/3/2018, Nguyễn Tùng D điều khiển xe mô tô Majetty BKS 16F8-3537 từ nhà sang khu vực đường tàu T, L, Hải Phòng mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực đương tàu T, D gặp 01 người đàn ông khoảng 30 tuổi (không biết tên, địa chỉ) hỏi mua ma túy đá với giá 300.000 đồng, người đàn ông này đưa cho D 01 gói nilon kích thước 02 x 02 cm bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng. D cất số ma túy vừa mua được vào túi quần  dài bên phải phía trước rồi đi về nhà bạn mới quen tên là Tuyền (không rõ lai lịch) ở chợ H, phường H, quận D. Khi đến khu vực N I, phường A, quận D, Hải Phòng, D đang đứng chờ bạn thì bị tổ công tác Công an quận D phát hiện, kiểm tra và thu trong người D 01 gói ma túy.

Bản kết luận giám định số 118/KLGĐ ngày 15/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hải Phòng kết luận xác định: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng: 0,2037 gam, là loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Tùng D khai nhận hành vi như đã nêu trên. Tại bản cáo trạng số 12/CT-VKS ngày 08/6/2018, Viện Kiểm sát nhân dân quận D đã truy tố Nguyễn Tùng D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về vật chứng:

- 01 xe mô tô Majetty BKS 16F8- 3537, Nguyễn Tùng D khai được bạn tên là Hoàng (không rõ lai lịch) cho mượn để đi lại. Xác minh tại phòng Cảnh sát giao thông đường bộ đường sắt - Công an thành phố Hải Phòng, xe mô tô Majetty BKS 16F8 - 3537 là của ông Vũ Tuấn A, sinh năm: 1950, ĐKTT: 46/89 L, G, Hải Phòng, ông Tuấn A khai nhận đã bán chiếc xe trên cho một người đàn ông không quen biết với giá 10.000.000 đồng từ năm 2001. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa xác địch được nên tách tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

- 01 phong bì niêm phong ma túy còn lại sau giám định chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận D quản lý phục vụ xét xử.

Đối với người đàn ông khoảng 30 tuổi bán ma túy cho Nguyễn Tùng D ở đường tàu T, L, Hải Phòng và đối tượng Tuyền (là bạn của D) quá trình điều tra chưa xác định được căn cước lai lịch, Cơ quan điều tra làm rõ xử lý sau.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng, bị cáo tỏ ra ăn năn, hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, mức độ, tính nguy hiểm và hậu quả của hành vi phạm tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Tùng D với mức án từ 18 đến 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì điều kiện kinh tế khó khăn.

Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận D, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Về tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16h30’ ngày 13/3/2018, tại khu vực N I, phường A, quận D, Nguyễn Tùng D có hành vi cất giấu trái phép trong người 01 gói ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng 0,2037 gam  để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[3] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[5] Tính chất của vụ án là nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Tệ nạn ma túy đang là hiểm họa lớn đối với toàn xã hội, gây tác hại xấu cho sức khỏe con người, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội khác.Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đặc điểm nhân thân của bị cáo.

[6] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mặc dù bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nhưng về nhân thân, bị cáo đã từng bị xét xử 24 tháng tù về tội “Cướp tài sản” vào năm 2003. Bị cáo tuy đã chấp hành xong hình phạt của bản án trên và được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội mới. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm khắc xử phạt bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa mới đủ tác dụng cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung:

[8] Hội đồng xét xử xét thấy: Điều kiện kinh tế của bị cáo khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

[09] Hiện Chi cục thi hành án dân sự quận D đang quản lý 01 phong bì đã niêm phong có chữ ký của Nguyễn Tùng D và giám định viên bên trong đựng số ma túy còn lại sau giám định. Xét thấy, số vật chứng này liên quan đến việc phạm tội, là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên cần áp dụng Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy.

Về án phí:

[10] Bị cáo phải nộp án phí theo quy định pháp luật. Về quyền kháng cáo:

[11] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt Nguyễn Tùng D 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù từ ngày 13/3/2018.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong có chữ ký của Nguyễn Tùng D và giám định viên bên trong đựng số ma túy còn lại sau giám định (theo Biên bản bàn giao vật chứng ngày 11/6/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận D, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị  cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HS-ST ngày 21/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Dương Kinh - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về