Bản án 09/2018/HS-ST ngày 20/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 09/2018/HS-ST NGÀY 20/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử11/2018/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 03 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 04 tháng 9 năm 1993 tại tỉnh Tây Ninh; Nơi cư trú: ấp BL, xã HĐ, huyện CT, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1954 và bà Trần Thị Tuyết H, sinh năm

1971; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: bản án 02/2016/HSST ngày 15-4-2016 của Tòa án quân sự khu vực 1-QK7 xử phạt Nguyễn Tiến Đ 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27-12-2015; bị cáo Đ chấp hành hình phạt tù xong từ ngày 22-12-2016, chưa được xóa án tích; Bị cáo có mặt tại tòa.

Bị hại: Ông Nguyễn Ánh S, sinh năm 1987; Nơi cư trú: ấp KH, xã CK, huyện DMC, tỉnh Tây Ninh; Có Đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ ngày 20-12-2017, Nguyễn Tiến Đ điều khiển xe mô tô biển số 70H3-2988 của cha ruột là ông Nguyễn Văn S đi từ huyện CT về thành phố TN. Khi đi ngang gara sửa chữa xe tải của ông Nguyễn Ánh S thuộc ấp BT, xã BM, thành phố TN thì Đ phát hiện nhiều tăng bua xe tải trong gara không có người trông coi và cửa gara cũng mở nên Đ chạy xe mô tô vào trong ga ra lấy trộm 01 tăng bua xe tải để lên ba ga xe mô tô chở đi cất giấu tại bãi đất trống cách gara khoảng 01 km thuộc hẻm số 1, đường CMT8, ấp BP, xã TB, huyện CT, tỉnh Tây Ninh. Đ điều khiển xe quay lại gara và tiếp tục lấy trộm 01 tăng bua xe tải thứ hai chạy ra khỏi tiệm gara một đoạn thì bị người dân phát hiện, bắt giữ và giao cho lực lượng Công an thành phố Tây Ninh.

Kết luận định giá tài sản số 93/KLĐG-TTHS ngày 20-12-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh kết luận: 01 tăng bua xe tải bằng sắt đã qua sử dụng trọng lượng 47 kg có trị giá 235.000 đồng và 01 tăng bua xe tải bằng sắt đã qua sử dụng trọng lượng 49kg có trị giá245.000 đồng, tổng cộng 480.000 đồng.Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: 01 xe mô tô hai bánh hiệu Future biển số70H3-2988 đã trả lại cho ông Nguyễn Văn S theo quy định; 02 (hai) tăng bua xe tải đã trả lại cho bị hại Nguyễn Ánh S. 

Về trách nhiệm dân sự: bị hại Nguyễn Ánh S không yêu cầu bồi thường.

Tại cơ quan điều tra, Đ thừa nhận một mình thực hiện toàn bộ hành vi phạm tội nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản để có tiền tiêu xài cá nhân. Bản cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 05 tháng 02 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Nguyễn Tiến Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Nguyễn Tiến Đ có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Do lười lao động, muốn có tiền tiêu xài nên ngày 20-12-2017, Đ lén lút lấy trộm 02 (hai) tăng bua xe tải của ông Nguyễn Ánh S tại ấp BT, xã BM, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh với tổng giá trị 480.000 đồng thì bị người dân bắt quả tang.

Hành vi của Nguyễn Tiến Đ  là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác nên phải chịu trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến Đ  từ 06 đến 09 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luậtTố tụng hình sự ghi nhận vật chứng đã được xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Đ tự bào chữa: Bị cáo không tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã ăn năn hối cãi và nhận thức được hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Bị hại vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

[2] Về hành vi của bị cáo: Xét thấy quan điểm và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát trong phần tranh tụng tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án và đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ vào các chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Nguyễn Tiến Đ có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Do lười lao động, muốn có tiền tiêu xài nên ngày 20-12-2017, Đ lén lút lấy trộm 02 (hai) tăng bua xe tải của ông Nguyễn Ánh S tạiấp BT, xã BM, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh với tổng giá trị 480.000 đồng thì bị người dân bắt quả tang. Giá trị tài sản bị trộm cắp dưới 2.000.000 đồng nhưng do bị cáo có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nên đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Tiến Đ  phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo phạm tội trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 nhưng do khung hình phạt quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 nhẹ hơn nên cần áp dụng tình tiết có lợi cho bị cáo theo quy định tại Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội áp dụng khoản 1 Điêu 173 Bô luât Hinh sư năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định tội danh, hình phạt đối với bị cáo Đ.

Hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo Đ là nguy hiểm cho xã hội , thể hiện việc xem thường pháp luật, đã xâm phạm đến quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ. Bị cáo chỉ vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà đã thực hiện thành vi phạm tội nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian hợp lý đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và làm gượng để giáo dục phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và có thái độ ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Sau khi sự việc phạm tội xảy ra, trong một thời gian ngắn tài sản đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự năm 2013 nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự

[5] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội này.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm mướn, không có tài sản gì khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng: căn cứ điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Ghi nhận Cơ quan Điều tra đã trả 01 xe mô tô hai bánh hiệu Future biển số70H3-2988 đã trả lại cho ông Nguyễn Văn S; 02 (hai) tăng bua xe tải đã qua sử dụng cho bị hại Nguyễn Ánh S là có căn cứ pháp luật.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thườngvụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến Đ 06 (sáu) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[2] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[3] Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:Ghi nhận Cơ quan Điều tra đã trả 01 xe mô tô hai bánh hiệu Future biển số 70H3-2988 đã trả lại cho ông Nguyễn Văn S; 02 (hai) tăng bua xe tải đã qua sử dụng cho bị hại Nguyễn Ánh S.

[4] Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016:

Bị cáo Nguyễn Tiến Đ  phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo Đ biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại ông Nguyễn Ánh S có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã CK, huyện DMC, tỉnh Tây Ninh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

335
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HS-ST ngày 20/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về