Bản án 09/2018/HS-ST ngày 06/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 09/2018/HS-ST NGÀY 06/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 3 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2018/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Cao Văn B, sinh năm 1988 tại thành phố H, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú: khu T, phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: không; Trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Văn T ( đã chết) và bà Bùi Thị T; có vợ là Chu Thị T và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 05/01/2018, tạm giam từ ngày 08/01/2018 tại Trại tạm giam Kim Chi, Công an tỉnh Hải Dương; có mặt.

Người làm chứng: Chị Trần Thị N, sinh năm 1976; Nơi cư trú: thôn Q, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 50 phút ngày 05/01/2018, Cao Văn B một mình đi bộ đến khu vực T, thành phố H chơi. Sau đó, B nảy sinh ý định đi mua ma túy đá về để sử dụng cho cá nhân nên B đi nhờ xe máy của một nam thanh niên khoảng 30 tuổi ( B không biết tên, địa chỉ, loại xe và biển số xe của người này) đi trên Quốc lộ 1A hướng Hà Nội - Hải Phòng đến khu vực thôn L, xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương, B xuống xe và đi bộ sang chiều đường Hải Phòng - Hà Nội và đi bộ dọc rìa đường Quốc lộ 1A hướng phía thành phố H. Khi B đi đến gần cây xăng ở khu vực thôn L, xã C, huyện K thì đứng lại chờ tìm mua ma túy. Khoảng 18 giờ 15 phút cùng ngày, B thấy một nam thanh niên lạ mặt khoảng 35 tuổi, không biết tên tuổi, địa chỉ đi xe máy nhãn hiệu Sirius màu đỏ, không rõ biển số một mình từ phía Hải Phòng đến. Thanh niên này đi đến trước mặt thì B hỏi: “ Anh có đồ không, cho em một túi nhỏ”. Ý B hỏi người thanh niên là có ma túy đá không bán cho B một gói nhỏ. Thấy B hỏi, người thanh niên lạ mặt đỗ xe máy lại và trả lời: “ Có, cần mua bao nhiêu”. B trả lời: “ Cho em gói ba trăm nghìn”, ý B bảo người thanh niên bán cho B gói ma túy đá 300.000đồng. Người thanh niên đồng ý và lấy trong túi áo khoác đang mặc trên người ra 01 gói nilon màu trắng bên trong đựng chất tinh thể màu trắng dạng cục, B nhìn và biết đó là ma túy đá. Thấy vậy, B dùng tay phải móc lấy 300.000đồng trong túi quần sau bên phải B đang mặc đưa cho người thanh niên cầm, còn tay trái B cầm lấy gói ma túy đá của người thanh niên, sau đó người thanh niên nổ xe máy bỏ đi về phía thành phố Hải Dương. B cầm gói ma túy đá ở lòng bàn tay trái và đứng lại ở đó mục đích chờ đi nhờ xe về nhà. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, tổ công tác Công an huyện Kim Thành cùng Công an xã Cộng Hòa đến phát hiện bắt quả tang B đang tàng trữ trái phép chất ma túy đá nêu trên ở tay trái. Đồng thời, phát hiện và thu giữ trong túi áo khoác bên trái của B đang mặc 01 nỏ bằng thủy tinh màu trắng, 01 ống hút bằng nhựa và 01 đầu đốt, B khai đều là bộ dụng cụ của B dùng để sử dụng ma túy đá.

Tại bản Kết luận giám định số 109/KLGĐ - PC54 ngày 08/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất tinh thể màu trắng thu trên tay trái của Cao Văn B có trọng lượng là 0,280 gam là loại Methamphetamine, Methamphetamine nằm trong danh mục II, STT: 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013.

Tại Bản cáo trạng số 03/CT-VKSKT ngày 02/02/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố Cao Văn B về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy ”, theo quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương thực hành quyền công tố t¹i phiªn tßa trình bày luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 01 Điều 249,  điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù. Ngoài ra, quan điểm của Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết về vật chứng và án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan Điều tra Công an huyện Kim Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng, nội dung Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Hồi 18 giờ 30 phút, ngày 05/01/2018, tại đường Quốc lộ 5 thuộc thôn L, xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương, Cao Văn B có hành vi cất giữ trái phép 0,280 gam ma túy loại Methamphetamine ở lòng bàn tay trái với mục đích để sử dụng trái phép thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo về tội phạm trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[ 3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được chất ma túy rất độc hại, cấm tàng trữ trái phép, nhưng vì mục đích để sử dụng trái phép bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[ 4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Song, dù có chiếu cố đến đâu vẫn  phải buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân lương thiện có ích cho xã hội.

[ 5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 của Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản ”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo thì thấy trước khi bị cáo phạm tội, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, bản thân bị cáo là con nghiện đang ở cùng với gia đình điều kiện kinh tế khó khăn. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo cũng là phù hợp.

[ 6] Về vật chứng: Gồm có 01 phong bì thư số 109/KLGĐ-PC54 được niêm phong dấu của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Hải Dương bên trong đựng số ma túy được hoàn lại sau khi gửi đi giám định, đây là vật cấm lưu hành nên cần phải tịch thu cho tiêu hủy. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Kim Thành còn thu giữ của bị cáo 01 nỏ thủy tinh màu trắng, 01 ống hút bằng nhựa, 01 đầu đốt kim loại bị cáo khai là dụng cụ để bị cáo sử dụng hút ma túy đá. Xét thấy, những vật chứng nêu trên không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu cho tiêu hủy.

[ 7 ] Về án phí: Bị cáo bị kết luận có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 01 Điều 249, điểm s khoản 01 Điều 51, điểm c khoản 01 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 02 Điều 106, khoản 02 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[ 1] Tuyên bố bị cáo Cao Văn B phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”

[2]  Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Cao Văn B 12( mười hai ) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 05/01/2018.

[ 3] Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì thư số 109/KLGĐ - PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hải Dương; 01 nỏ thủy tinh; 01 ống hút bằng nhựa; 01 đầu đốt ( Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/02/2018)

[4]  Về án phí:  Buộc bị cáo Cao Văn B phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[5]  Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HS-ST ngày 06/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về