Bản án 09/2018/HNGĐ-ST ngày 09/02/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 09/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/02/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 09/02/2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 489/2017/TLST- HNGĐ ngày 29/12/2017 về việc:“Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/01/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 05/2018/QĐST - HNGĐ ngày 01/02/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Tống Văn T, sinh năm 1974;

Nơi ĐKNKTT: Khu D, phường B, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do, có mặt.

- Bị đơn: Chị Đào Thị N, sinh năm 1984;

Nơi ĐKNKTT: Khu H, phường Đ, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 27/6/2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Tống Văn T trình bày: Tôi và chị Đào Thị N xây dựng gia đình với nhau từ năm 2001 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thị xã P (nay là thành phố P), tỉnh Quảng Ninh ngày 25/10/2002, trên cơ sở tự nguyện, trước khi kết hôn có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 6 tháng. Sau khi kết hôn, tôi và chị N sống chung tại nhà của mẹ chị N ở khu H, phường Đ, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh. Trong quá trình sống chung của vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, từ năm 2007 tình trạng mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống chung, chị N quyết định mọi vấn đề trong gia đình, trong tình cảm vợ chồng thì không có sự tin tưởng nhau, kinh tế gia đình khó khăn. Tôi và chị N đã sống ly thân từ năm 2010 đến nay không còn quan hệ gì với nhau nữa, gia đình hai bên đã khuyên can hòa giải nhưng tôi và chị N vẫn không khắc phục được mâu thuẫn nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với chị N để tôi ổn định cuộc sống. Tôi và chị N có một con chung là Tống Duy T1, sinh ngày 17/01/2001. Khi ly hôn, tôi xin được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị N cấp dưỡng cho con vì từ khi sống ly thân con chung vẫn ở với tôi và trong suốt quá trình Tòa án giải quyết yêu cầu xin ly hôn của tôi đối với chị N, chị N không có mặt. Tôi hiện nay đang lao động tự do, thu nhập đảm bảo cho việc nuôi dưỡng con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Đối với bị đơn chị Đào Thị N: Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả đã triệu tập hợp lệ nhiều lần đến trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả để giải quyết yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Tống Văn T đối với chị Đào Thị N nhưng đều vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán; Hội đồng xét xử đã tiến hành các thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân; bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Tống Văn T. Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả nhận thấy có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Tống Văn T. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]Cuộc hôn nhân giữa anh Tống Văn T và chị Đào Thị N là hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thị xã P (nay là thành phố P), tỉnh Quảng Ninh ngày 25/10/2002. Về tình trạng hôn nhân của Anh T và chị N như Anh T trình bày nêu trên. Anh T xét thấy không còn tình cảm với chị N, yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị N để ổn định cuộc sống; chị Đào Thị N, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do nên không rõ quan điểm của chị N về tình trạng hôn nhân của vợ chồng, chị N có còn tình cảm với Anh T hay không.  Anh T và  chị  N có  một  con  chung  là  Tống Duy T1, sinh  ngày 17/01/2001. Anh T   xin được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị N cấp dưỡng cho con vì Anh T cho rằng từ khi sống ly thân Anh T là người nuôi dưỡng con chung, trong suốt quá trình Tòa án giải quyết yêu cầu xin ly hôn của Anh T đối với chị N, chị N không có mặt. Về điều kiện nuôi dưỡng con chung: Anh T hiện đang lao động tự do, thu nhập đảm bảo việc nuôi dưỡng con chung. Chị Đào Thị N không có mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên không rõ quan điểm của chị N về phần con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Anh T xác định là không có.

[2]Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả đã tiến hành lấy lời khai của bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1960; trú tại: Khu H, phường Đ, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh là mẹ đẻ của chị Đào Thị N, được bà Nguyễn Thị Y cung cấp thông tin về tình trạng hôn nhân của Anh T và chị N về cơ bản đúng như Anh T đã trình bày nêu trên. Tại biên bản lấy lời khai ngày 19/01/2018 con chung của Anh T và chị N là cháu Tống Duy T1 có nguyện vọng được ở với bố nếu bố mẹ ly hôn.

[3]Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như nêu trên, đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, căn cứ quy định tại các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa Anh T và chị N đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Anh T đối với chị N; đối với yêu cầu xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của Anh T, do chị N không có mặt trong quá trình giải quyết vụ án và xét thấy Anh T có đủ điều kiện để nuôi dưỡng con chung nên chấp nhận yêu cầu xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của Anh T; Anh T không yêu cầu chị N cấp dưỡng cho con nên không đề cập. Về tài sản chung, nợ chung: Anh T xác định là không có.

[4]Về án phí: Anh Tống Văn T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện về việc xin ly hôn của anh Tống Văn T đối với chị Đào Thị N. Anh Tống Văn T được ly hôn với chị Đào Thị N.

Giao cho anh Tống Văn T có trách nhiệm trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Tống Duy T1, sinh ngày 17/01/2001 cho đến khi đủ 18 tuổi. Chị Đào Thị N không phải cấp dưỡng cho con, có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh Tống Văn T xác định là không có.

Về án phí: Anh Tống Văn T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí Anh T đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009821 ngày 29/12/2017 của Chi cục Thi thành án dân sự thành phố Cẩm Phả. Anh T đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Vắng mặt bị đơn, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HNGĐ-ST ngày 09/02/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:09/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:09/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về