TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 09/2017/HSST NGÀY 16/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở TAND huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2014/HSST ngày 24 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
- Họ và tên: Lò Văn T ; tên gọi khác: Không, sinh ngày 10/10/1974;
- Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản B, xã C, huyện T, tỉnh Đ; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam;nghề nghiệp: Nông Nghiệp; trình độ văn hoá: Lớp 6; con ông: Lò Văn O, (đã chết); con bà: Lò Thị U, sinh năm 1937; Bị cáo có vợ là Lò Thị T và có 03 người con; tiền sự: Không; tiền án: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/6/2017, có mặt.
+ Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị Diệu, Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên. Có mặt.
+ Người có quyền lợi liên quan đến vụ án: Lò Văn C, trú tại: Bản L, xã C, huyện T, tỉnh Đ ( vắng mặt).
+ Lò Thị T, trú tại: Bản B, xã C, huyện T, tỉnh Đ. Có mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Lò Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố về hành vi phạm tội như sau: Hồi 4 giờ 35 phút ngày 26/6/2017, tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo làm nhiệm vụ tại bản L, xã C, huyện T phát hiện và bắt quả tang Lù Văn C, sinh năm 1979 , trú tại bản L, xã C đang đang sử dụng trái phép chất ma túy, thu giữ 01 bật lửa ga và 01 mảnh giấy bác bị đốt cháy. C khai số hê rô in C vừa sử dụng mua của Lò Văn T ở bản B, xã C với số tiền 600.000đ.
Căn cứ lời khai của C, cùng ngày, cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật và các vùng phụ cận đối với Lò văn T. Quá trình khám xét phát hiện thu giữ trong chuồng gà nhà T 01 gói hê rô in, tạm giữ 01 chiếc cân điện tử vỏ màu đen hiệu POCKETSCALE cũ.
Tại cơ quan điều tra, Lò Văn T khai nhận: Vào khoảng đầu tháng 6 năm 2017, Lò Văn T vào bản P, xã B, huyện S, tỉnh L để tìm mua vàng. Khi đi gần đến xã M, huyện T thì trời mưa nên quay lại. Khi về đến bản T, xã X, huyện M thì gặp một nhóm thanh niên đang sử dụng hê rô in. Một người trong số đó giới thiệu tên là N ở bản P, xã S, huyện Đ. N nói với T khi nào muốn mua hê rô in thì gọi cho N. N và T cho nhau số điện thoại. Đến khoảng 11 giờ ngày 22/6/2017, N gọi điện thoại cho T báo là đã mua được hê rô in, có mua không. T nhất trí mua và hẹn gặp Na tại bản T, xã X vào ngày hôm sau. Ngày 23/6/2017, T đi xe máy đến bản T gặp Na và mua của N 01 cục hê rô in to bằng đầu ngón tay được gói trong mảnh ni lông màu trắng với giá 10.000.000đ. Việc mua bán diễn ra tại đường và chỉ có hai người biết với nhau, không cân xác định trọng lượng. T mang gói hê rô in về cất giấu tại chuồng gà. Đến khoảng 16 giờ ngày 25/6/2017, có Lù Văn C trú tại bản L, xã C đến hỏi mua 600.000đ. T nói hiện chưa có, để tiền lại khi nào có T đưa cho. C đồng ý và đưa cho T 600.000 đ rồi đi về. T ra chuồng gà lấy cục hê rô bẻ một ít gói lại cất trong túi quần để khi C đến đưa cho tiện. Số còn lại T gói lại và cất vào chỗ cũ. Đến 19 giờ cùng ngày, C đến nhà T và T đã đưa lại cho C gói hê rô in. Sau khi C về , T đến bản ta C, xã C ngủ để hôm sau đi uống methadone. Đến 7 giờ ngày 26/6/2017 thì bị cơ quan điều tra khám xét, phát hiện và thu giữ gói hê rô in.
Ngày 27/6/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành mở niêm phong và xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định vật chứng. Số Hêrôin thu được của Lò Văn T được xác định trọng lượng là 18,67gam.
Tại bản Kết luận giám định số: 629/GĐ-PC-54 ngày 28/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đ đã kết luận: Mẫu vật gửi giám định được trích ra từ mãu vật gửi giám định được trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T là chất ma túy. Loại hê rô in.
Tại bản Cáo trạng số: 95/QĐ-VKS - HS ngày 24/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm h khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999. Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm h khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1,2 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 09 năm đến 10 năm tù. Áp dụng Điều 41 BLHS,Điều 99, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/QH, tuyên hủy 01 gói niêm phong Hêrôin; tịch thu xung quĩ nhà nước 01 điện thoại hiệu OPPO, truy thu 600.000đ do bị cáo thu lợi bất chính ; trả lại cho chị Lò Thị T 01 chiếc xe máy, 01 cân điện tử; không phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Người bào chữa nhất trí quan điểm truy tố, các tình tiết giảm nhẹ TNHS và hướng xử lý vật chứng, án phí của đại diện VKS. Đề nghị HĐXX giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
XÉT THẤY
Căn cứ vào lời khai của Lù Văn C, ngày 26/6/2017, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo tiến hành khám xét nơi ở, đồ vật và vùng phụ cận cuả Lò Văn T, thu giữ tại chuồng gà 01 gói hê rô in có trọng lượng 18,67. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa,bị cáo Lò Văn T khai thừa nhận gói hê rô in trên là của bị cáo, mua của một người tên Nhìa vào ngày 23/6/2017, mục đích để sử dụng và bán. Bị cáo bán cho Lù Văn C 01 gói với giá 600.000đ vào ngày 25/6/2017. Số còn lại bị cơ quan điều tra thu giữ.
Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bắt khám xét, biên bản mở niêm phong và xác định trọng lượng vật chứng, kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác.Từ các chứng cứ trên đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lò Văn T đã bán cho Lù Văn C 01 lần 01 gói hê rô in vào ngày 26/6/2017.Trọng lượng hê rô in thu giữ được của bị cáo là 18,67 gam.
Hành vi bán trái phép Hêrôin của Lò Văn T đã phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Tội phạm được qui định tại điểm h khoản 2 Điều 194 BLHS. Tại khoản 2 điều 194 BLHS qui định: “ Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm :
…h, Hê rô in hoặc cocain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam”.
Bởi vậy, VKSND huyện Tuần Giáo truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản nêu trên là chính xác.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sự độc quyền về quản lý chất ma túy của nhà nước, tiếp tay cho tệ nạn nghiện ma túy đang là vấn đề bức xúc của xã hội, gây mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển giống nòi của dân tộc nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh đối với hành vi phạm tội của bị cáo.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo. Gia đình bị cáo có bố đẻ là ông Lò Văn H có công với nhà nước Việt Nam và cách mạng Lào nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo qui dịnh tại điểm p khoản 1,2 Điều 46 BLHS. Là người thanh niên có sức khỏe nhưng bị cáo không chịu rèn luyện bản thân, lao động chân chính để có thu nhập.Vì hám lợi, bị cáo đã phạm tội. Bản thân bị cáo lại nghiện ma túy nên đó cũng là một nguyên nhân khác dẫn bị cáo vào con đường phạm tội. Bởi vậy, cần áp dụng hình phạt tù với mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo có hoàn kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
Đối với người thanh niên tên là N ở bản P, xã S, huyện Đ, bị cáo khai đã bán hê rô in cho bị cáo. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng tại địa chỉ trên không có ai tên N nên cơ quan điều tra không cớ cơ sở xử lý.
Vật chứng vụ án là 01 gói Hêrôin có trọng lượng 18,54 gam .Đối với chiếc 01 điện thoại di dộng và 01 chiếc cân điện tử cần áp dụng Điều 41 BLHS và Điều 76 BLTTHS tuyên tịch thu bán sung quĩ nhà nước. Riêng chiếc xe máy bị cáo sử dung làm phương tiện đi mua hê rô in là tài sản riêng của chị Lò Thị T. Chị T không có lỗi trong việc bị cáo sử dụng xe đi mua hê rô in nên cần áp dụng Điều 42 BLHS trả lại cho chị Tún.
Đối với số tiền 600.000đ bị cáo bán hê rô in cho Lù Văn C, là tiền thu lợi bất chính, cần truy thu xung quĩ nhà nước.
Bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí HSST theo qui định nghị quyết 326/2016/QH.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.
2. Hình phạt: Áp dụng điểm h khoản 2, Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Lò Văn T 08(tám) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/6/2017.
3. Vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 BLTTHS tuyên tịch thu để hủy 01 gói hê rô in được niêm phong có trọng lượng 18,58 gam, 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy bạc. Tuyên tịch thu bán sung quĩ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu xanh đen. Truy thu xung quĩ nhà nước của bị cáo 600.000đ.Trả lại cho chị Lò Thị T 01 chiếc xe mô tô hiệu SiRiuS màu vàng- đen,BKS 27Z-062.45 và 01 điện tử nhãn hiệu POCKET.
Đặc điểm vật chứng được ghi theo phiếu nhập kho vật chứng số PNKVC07 ngày 20/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.
4. Án phí: Áp dụng Điều 99 BTTHS và điểm d Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/QH, miễn án phí HSST cho bị cáo.
Bị cáo, người có quyền lợi liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 09/2017/HSST ngày 16/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 09/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về