TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 08/2021/KDTM-ST NGÀY 03/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 03 tháng 6 năm 2021tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 162/2021/TLST-DS ngày 23 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXXST-KDTM ngày 07 tháng 5 năm 2021và quyết định hoãn phiên tòa số 21/2021/QĐST-KDTM ngày 25 tháng 5 năm 2021và giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đ; địa chỉ trụ sở: phường 3, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, là đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền số 265/QĐ-DAB-PC ngày 28-02-2020); có mặt.
- Bị đơn: Bà Phạm Thị Q, nơi cư trú: Thôn 6, xã Kiềm Bái, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
- Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Duy L; nơi cư trú: huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, các bản tự khai và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Ngân hàng TMCP Đ – Chi nhánh Hải Phòng – Phòng Giao dịch huyện Thủy Nguyên (sau đây viết tắt là Ngân hàng) và bà Phạm Thị Q có ký hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 006085850131183601T17026 ngày 07-9-2017, theo hợp đồng tín dụng Ngân hàng cho bà Q vay 30.000.000 đồng, thời hạ vay 24 tháng, lãi suất trong hạn là 9,5%/năm; lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn; mục đích vay: Bổ sung vốn phát triển kinh tế hộ gia đình. Nợ gốc và lãi vay được bên vay trả góp thành 24 kỳ. Trong quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng, tính đến ngày 07-9- 2019 bà Q đã trả được 13.782.000 đồng tiền gốc và 4.218.000 đồng tiền lãi trong hạn. Bà Q đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán và để nợ quá hạn từ ngày 07-8-2018, mặc dù đã nhiều lần Ngân hàng yêu cầu trả nợ nhưng bà Q vẫn không thực hiện được. Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Phạm Thị Q phải trả cho Ngân hàng nợ gốc 16.218.000 đồng, tiền lãi trong hạn: 1.482.000 đồng, nợ lãi quá hạn tính đến hết ngày 02-6-2021 là 6.926.440 đồng. Tổng cộng: 24.626.140 đồng và tiếp tục phải trả lãi quá hạn phát sinh cho đến khi trả hết nợ. Trong trường hợp bị đơn không thanh toán được khoản nợ nêu trên thì ông Phạn Duy L phải trả nợ thay bà Q (ông L là người bảo lãnh).
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án cũng như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn bà Phạm Thị Q và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Duy L nhưng bà Q và ông L không cung cấp lời khai, không lên Tòa án để giải quyết vụ án. Tại các buổi tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải bà Q và ông L đều vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và bà Q và ông L cũng không có quan điểm về việc giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và về việc giải quyết vụ án như sau:
Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ nhưng chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung khởi kiện: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự các điều các điều 116, 117, 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 90, 91 và 95 của Luật các Tổ chức tín dụng, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Phạm Thị Q phải trả cho Ngân hàng theo như hợp đồng tín dụng đã ký kết số tiền nợ gốc là:
16.218.000 đồng, tiền lãi trong hạn: 1.482.000 đồng, nợ lãi quá hạn tính đến hết ngày 02-6-2021 là 6.926.440 đồng. Tổng cộng: 24.626.140 đồng. Trường hợp bà Phạm Thị Q không trả được nợ thì ông Phạm Duy L phải có trách nhiện trả nợ thay cho bà Q. Bà Q phải chịu toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quan hệ pháp luật có tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tranh chấp giữa Ngân hàng TMCP Đông Á với bà Phạm Thị Q có mục đích vay tiền là để kinh doanh nên được xác định là tranh chấp kinh doanh thương mại. Bị đơn hiện đang cư trú tại huyện Thủy Nguyên nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng theo quy định tại Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về sự có mặt của các đương sự: Bị đơn, người có quyền lợi, nghã vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[3]. Về yêu cầu khởi kiện: Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 006085850131183601T17026 ngày 07-9-2017 giữa Ngân hàng và bà Phạm Thị Q đã ký kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, các chủ thể tham gia ký kết có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự, hình thức và nội dung hợp đồng phù hợp với các quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Bà Phạm Thị Q đã nhận đủ số tiền vay, nhưng không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền nợ gốc và lãi theo đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng là vi phạm nghĩa vụ của mình theo hợp đồng mà hai bên đã ký kết. Tính đến ngày 02-6- 2021 bà Phạm Thị Q còn nợ Ngân hàng số tiền nợ gốc 16.218.000 đồng, tiền lãi trong hạn: 1.482.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 6.926.440 đồng. Tổng cộng:
24.626.140 đồng. Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Q phải trả số tiền còn nợ nêu trên là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
[4]. Khi ký hợp đồng tín dụng, Ông Phạm Duy L là chồng của bà Phạm Thị Q có cam kết tại mục của người bảo lãnh: “bà Phạm Thị Q không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, tôi sẽ trả nợ thay cho người vay đến khi hết nợ vay tại Ngân hàng”. Ngân hàng yêu cầu trong trường hợp bà Q không thanh toán được khoản nợ nêu trên thì ông Phạn Duy L phải trả nợ thay bà Q là có căn cứ chấp nhận.
[5] Về án phí: Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 116, 117, 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 90, 91 và 95 của Luật các Tổ chức tín dụng; Luật phí và lệ phí, Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đông Á buộc bà Phạm Thị Q phải trả nợ cho Ngân hàng theo Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 006085850131183601T17026 ngày 07-9-2017 với số tiền nợ gốc là 16.218.000 đồng, tiền lãi trong hạn: 1.482.000 đồng, nợ lãi quá hạn tính đến hết ngày 02-6-2021 là 6.926.440 đồng. Tổng cộng: 24.626.140 đồng.
Kể từ ngày 03-6-2021, Bà Phạm Thị Q còn phải tiếp tục trả khoản tiền lãi đối với khoản nợ gốc chưa thanh toán cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này, theo mức lãi suất mà hai bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Trong trường hợp bà Phạm Thị Q không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, ông Phạm Duy L phải có trách nhiệm trả nợ toàn bộ khoản nợ gốc và nợ lãi thay cho bà Phạm Thị Q theo Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 006085850131183601T17026 ngày 07-9-2017.
Về án phí sơ thẩm: Bà Phạm Thị Q phải chịu 3.000.000 đồng án kinh doanh thương mại sơ thẩm. Trả lại Ngân hàng TMCP Đông Á số tiền tạm ứng án phí 580.000 đồng tại biên lai thu số 0015560 ngày 23 tháng 11 năm 2020 của Cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
Về quyền kháng cáo: Ngân hàng TMCP Đông Á được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Phạm Thị Q, ông Phạm Duy L quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 08/2021/KDTM-ST ngày 03/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 08/2021/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 03/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về