Bản án 08/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy        

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nôngxét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 3năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Nông Quốc A, sinh năm 1995 tại tỉnh Lạng Sơn; Nơi cư trú: Bon M, xã ĐT, huyện T, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 8/12; giới tính: Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông V(đã chết) và con bà Nông Thị H, sinh năm 1971; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 17/12/2020, đến ngày 26/12/2020 chuyển tạm giam đến nay - có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Nông Quốc A:

1. Ông YM - Trợ giúp viên pháp lý - có mặt;

2. Ông Phạm Quang L -Trợ giúp viên pháp lý - có đơn xin xét xử vắng mặt; Nơi công tác: Trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc Sở tư pháp tỉnh Đắk Nông. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Phùng Văn H, sinh năm 1997; địa chỉ: Bon M, xã ĐT, huyện T, tỉnh Đắk Nông - có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng tháng 10/2020, Nông Quốc A đi từ Đắk Nông xuống quận 7, thành phố Hồ Chí Minh, gặp mộtngười đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) và mua ma túy của người này với số tiền 2.000.000 đồng. Sau đó Nông Quốc A mang số ma túy mua được về nhà rồi chia nhỏ ra để bán lại cho các con nghiện kiếm lời.

Vào khoảng 16 giờ ngày 17/12/2020, khi Nông Quốc A đang ở nhà thì anh Nguyễn Văn T gọi điện thoại cho Nông Quốc A để hỏi mua 600.000 đồng ma túy về để sử dụng, Nông Quốc A đồng ý và hẹn T đến bờ đập tại thôn M, xã ĐS, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông để giao ma túy. Sau khi thỏa thuận xong với anh Nguyễn Văn T, Nông Quốc A vào nhà lấy ra một gói ma túy trong nồi cơm điện cũ để vào túi áo khoác bên phải và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 65F8-6752 đến bờ đập gặp Nguyễn Văn T cùng một người bạn (không rõ nhân thân lai lịch). Nông Quốc A lấy trong túi áo khoác 01 gói ma túy chuẩn bị giao cho Nguyễn Văn T thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức phát hiện và bắt quả tang thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất rắn màu trắng và số tiền 600.000 đồng.

Ngoài ra, sau khi bắt quả tang tiến hành khám xét chỗ ở của Nông Quốc A thu giữ 06 gói nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng và 03 viên nén màu đỏ đựng trong gói zipper là ma túy được đựng trong nồi cơm điện cũ không rõ nhãn mác.

Tại bản kết luận giám định 178/KLMT-PC09 ngày 30/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận:

- Tinh thể màu trắng trong 01 gói nilon màu trắng, hàn kín, kích thước (3,0 x 3,5) cm được niêm phong trong bì thư thứ nhất (bên ngoài bì thư có ghi ma túy thu giữ lúc bắt quả tang) gửi đi giám định là ma túy, có khối lượng mẫu là 0,5497 gam; là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định là 0,3993 gam);

- Tinh thể màu trắng đựng trong 06 gói nilon có đặc điểm nêu trên được niêm phong trong bì thư thứ hai (bên ngoài bì thư có ghi ma túy thu giữ lúc khám xét trong nhà Nông Quốc A) gửi đi giám định đều là ma túy, có tổng khối lượng mẫu là 1,7458 gam; là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định là 1,3898 gam);

- 03 viên nén màu đỏ đựng trong 01 gói zipper chỉ đỏ được niêm phong trong bì thư thứ hai (bên ngoài bì thư có ghi ma túy thu giữ lúc khám xét trong nhà Nông Quốc A) gửi giám định đều là ma túy, có tổng khối lượng mẫu là 0,2936 gam; là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định là 0,1828 gam).

Hoàn lại sau giám định tổng cộng là 1,9719 gam ma túy là Methamphetamine. Tại bản Cáo trạng số 09/CT-VKS ngày 25/3/2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức đã truy tố bị cáo Nông Quốc A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 gọi tắt là (BLHS).

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nông Quốc A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của BLHS và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

Tuyên bố bị cáo Nông Quốc A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38của Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nông Quốc A từ 02 (hai) năm 09 (chín) tháng đến 03 (ba) năm tù.

Đề nghị không áp dụng khoản 4 Điều 251 BLHS về hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nông Quốc A.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự  .

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 1,9719 gam ma túy là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định) và 01 nồi cơm điện cũ không rõ nhãn mác.

Đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với số tiền 600.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu bạc.

Đề nghị chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức đã trả lại 01 chiếc xe Honda biển kiểm soát 65F8-6752 cho anh Phùng Văn H là chủ sở hữu hợp pháp.

Quan điểm của trợ giúp viên pháp lý tham gia bào chữa cho bị cáo:

Ông YM đồng ý với bản luận tội của vị đại diện VKS về tội danh; điều luật áp dụng; các tình tiết giảm nhẹ, tuy nhiên trợ giúp viên pháp lý cho rằng mức hình phạt đại diện VKS đề nghị đối với bị cáo là quá cao và đề nghị HĐXX xem xét thêm cho bị cáo một số tình tiết: bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật hạn chế; sau khi bị bắt bị cáo tự nguyện giao nộp ma túy đang cất giấu trong nhà; Hành vi phạm tội của bị cáo được ngăn chặn kịp thời nên chưa gây thiệt hại; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bố mất sớm chỉ có hai mẹ con nương tựa vào nhau. Vì vậy, trợ giúp viên pháp lý đề nghị HĐXX áp dụng dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h; s khoản 1 khoản khoản 2 Điều 51BLHS xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất là 2 năm 9 tháng tù và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung.

Bị cáo đồng ý với lời bào chữa của trợ giúp viên pháp lý, không có ý kiến gì thêm, thừa nhận hành vi phạm tội, không tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Phùng Văn H không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Ánh là người có năng lực trách nhiện hình sự. Để kiếm lời, Nông Quốc A đã có hành vi mua ma túy(Methamphetamine) của đối tượng chưa rõ lai lịch ở quận 7, thành phố Hồ Chí Minhvới số tiền 2.000.000 đồng rồi mang về nhà chia nhỏ để bán kiếm lời. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 17/12/2020, tại thôn 8, xã ĐS, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông, Nông Quốc A đã có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy có khối lượng 0,5497 gam cho anh Nguyễn Văn T với số tiền 600.000 đồng thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức phát hiện và bắt quả tang. Quá trình khám xét thu giữ trong nhà của Nông Quốc A 2,0394gam ma túy, mục đích cất giữ để bán cho các con nghiện kiếm lời. Thu giữ tổng số 2,5891 gam; qua giám định chất thu giữ trên là Ma túy, là Methamphetamine. Như vậy hành vi của Nông Quốc A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS.

Tại khoản 1 Điều 251 của BLHS quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

…” Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo Nông Quốc Avề tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý Nhà nước về việc trao đổi chất ma túy, mà còn làm mất trật tự an ninh tại địa phương, gây nghiện ngập cho các đối tượng khác sử dụng ma túy, là tiền đề gây nhiều tệ nạn xấu cho xã hội. Vì vậy, bị cáo Nông Quốc A phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòabị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có ông nội là người có công với cách mạng đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51của BLHS, HĐXX sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Việc người bào chữa cho bị cáo đề nghị cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ là chưa gây thiệt hại theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[5] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của của bị cáo, HĐXX xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Đối với người đàn ông (không xác định nhân thân lai lịch) đã bán ma túy cho Nông Quốc A, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức tách ra tiếp tục xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Văn T là đối tượng mua ma túy của Nông Quốc A để sử dụng. Tuy nhiên, khi bị phát hiện, bắt quả tang anh Tuấn chưa nhận được ma túy trên nên không có căn cứ để xử lý T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển hồ sơ cho Công an huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông để xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình của bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, là lao động chính trong gia đình nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Ánh.

[8] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 1,9719 gam ma túy là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định) và 01 nồi cơm điện cũ không rõ nhãn mác là những công cụ mà Nông Quốc Asử dụng cho việc phạm tội không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 600.000 đồng bị cáo Nông Quốc A có được từ việc bán ma túy cho Nguyễn Văn T và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu bạc bị cáo sử dụng cho việc phạm tội, HĐXX xét thấy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 chiếc xe Honda biển kiểm soát 65F8-6752 bị cáo mượn của anh Phùng Văn H và anh H không biết A sử dụng chiếc xe vào việc phạm tội nên việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức đã trả lại cho anh H là chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nông Quốc Aphạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS.

Xử phạt Nông Quốc A 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 17/12/2020.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 của BLTTHS:

- Chấp nhận việc cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức đã trả lại 01 chiếc xe Honda biển kiểm soát 65F8-6752 cho anh Phùng Văn H - Tịch thu tiêu hủy 1,9719 gam ma túy là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định) và 01 nồi cơm điện cũ không rõ nhãn mác;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) Nông Quốc A có được từ việc phạm tội và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu bạc sử dụng vào việc phạm tội.

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/3/2021 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Đức; số tiền 600.000 đồng đã được chuyển vào tài khoản tạm thu số 5300203000027 của Chi cục thi hành án huyện Tuy Đức).

3. Về án phí:Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nông Quốc A phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy        

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về