Bản án 08/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại Sân vận động xã T thuộc ấp 3A, xã T, huyện C, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 215/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 255/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Ngô Việt Kh, sinh năm: 1994 tại tỉnh T; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp Th, xã B, huyện G, tỉnh T; chỗ ở hiện nay: ấp Ph, xã Ph, huyện C, Thành phố H; nghề nghiệp: cơ khí; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn Kh, sinh năm: 1975 và bà Phan Thị Ngọc L, sinh năm 1976; bị cáo chưa có vợ; tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 24/6/2020 cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lê Văn Ph, sinh năm: 1990 tại Thành phố H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Số 30, đường số 385, tổ 2, ấp C, xã T, huyện C, Thành phố H; nghề nghiệp: Chăn nuôi; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn M, sinh năm: 1970 (chết) và bà Nguyễn Thị Cẩm V, sinh năm 1970; bị cáo chưa có vợ; tiền án: Không; tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 28/12/2012 bị Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố H xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Chống người thi hành công vụ”, đến ngày 24/5/2013 chấp hành án xong, Phụng đã đóng án phí.

Bị cáo bị bắt tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 24/6/2020 cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Kinh L, sinh năm: 1985 (Xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Ph, xã Ph, huyện C, Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 24/6/2020, tại số nhà 30, đường số 385, tổ 2, ấp C, xã T, huyện Củ Chi, Công an huyện Củ Chi phối hợp với Công an xã T, huyện Củ Chi phát hiện, bắt quả tang Lê Văn Ph tàng trữ trái phép 01 gói ma túy ở thể rắn, Ph khai nhận số ma túy này có được do mua của người tên Tý G ở xã Ph, huyện Củ Chi vào ngày 23/6/2020, đồng thời Ph còn khai đã điện thoại cho Tý G hỏi mua chất ma túy và hẹn sẽ giao chất ma túy tại nhà của Ph, Ph đang chờ nhận chất ma túy thì bị Công an bắt giữ. Đến khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, Ngô Việt Kh mang chất ma túy đến nhà số 30 đường số 385, tổ 2, ấp C, xã T, huyện Củ Chi để giao thì bị Công an huyện Củ Chi bắt giữ, thu giữ 01 gói ma túy ở thể rắn, Kh khai nhận gói ma túy trên Kh đem bán cho người nghiện tên Ph, chưa bán được thì bị bắt. Ngoài ra, Kh khai trước đó đã bán ma túy cho Ph 02 lần vào các ngày 19/6/2020 và 23/6/2020.

Tại Kết luận giám định số 1082/KLGĐ-H ngày 02/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Lê Văn Ph và hình dấu Công an xã T, huyện Củ Chi gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,1823g, loại Methamphetamine.

Tại Kết luận giám định số 1083/KLGĐ-H ngày 02/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Ngô Việt Kh và hình dấu Công an xã T, huyện Củ Chi gửi đến giám định đều là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,3593g, loại Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 02 gói niêm phong mang số vụ 1082/2020 và 1083/2020 có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra;

- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 650.000đ;

- 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đen, số Imei: 869566042514497;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số Imei: 354499096013020;

- 01 xe mô tô biển số 70F1-360.27, số khung: MLE4G021111049970, số máy: G3A2E-049970.

Tại bản Cáo trạng số 213/CT-VKS ngày 16/11/2020, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị can Ngô Việt Kh về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b, i Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, bị can Lê Văn Ph về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, bị cáo Ngô Việt Kh thừa nhận hành vi phạm tội và khai rằng: Bị cáo làm nghề sửa xe cho Võ Kinh L ở ấp Ph, xã Ph, huyện C. Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 24/6/2020, L điện thoại cho bị cáo kêu bị cáo đến cổng chào Suối S thuộc xã An T, huyện Tr, tỉnh T để lấy chất ma túy giao cho người nghiện tên Ph tại nhà số 30, đường số 385, tổ 2, ấp C, xã T, huyện C, bị cáo đồng ý, bị cáo điều khiển xe máy biển số 70F1-360.27 đến cổng chào Suối S gặp người tên M và được M đưa 01 gói chất ma túy kêu bị cáo giao cho người nghiện với giá 1.600.000đ. Bị cáo điều khiển xe máy biển số 70F1-360.27 đến số nhà 30, đường số 385, tổ 2, ấp C, xã T, huyện C để giao chất ma túy và nhận tiền, khi đang lưu thông trên đường số 385 để giao chất ma túy cho người nghiện thì bị Công an huyện Củ Chi kiểm tra phát hiện bị cáo đang tàng trữ gói ma túy nên bắt giữ, thu giữ của bị cáo 01 gói chất ma túy, 01 điện thoại di động hiệu Realme, 01 xe máy biển số 70F1-360.27 là xe của L đưa cho bị cáo đi mua phụ tùng sửa xe. Trước đó vào các ngày 20/6/2020 và ngày 23/6/2020, L kêu bị cáo giao chất ma túy cho người nghiện tại số nhà 30, đường số 385, ấp C, xã T, huyện C, sau khi bị bắt bị cáo mới biết người bị cáo đã bán chất ma túy vào các ngày 20/6/2020 và ngày 23/6/2020 tên Lê Văn Ph.

Tại phiên toà, bị cáo Lê Văn Ph thừa nhận hành vi phạm tội và khai rằng: Bị cáo nghiện ma túy nên thường mua ma túy của Võ Kinh L tự Tý G, sinh năm: 1985; ngụ tại ấp Ph, xã Ph, huyện C để sử dụng. Ngày 19/6/2020 bị cáo sử dụng số thuê bao 0393434318 gọi vào số thuê bao 0862099513 của L để hỏi mua 1.600.000đ tiền ma túy và thỏa thuận địa điểm giao nhận ma túy tại nhà của bị cáo thì L đồng ý, sau đó có người thanh niên đem chất ma túy giao cho bị cáo và bị cáo giao số tiền 1.600.000đ, cũng bằng cách thức như trên ngày 23/6/2020 bị cáo mua chất ma túy của L với giá 1.600.000đ. Đến khoảng 13 giờ 00 phút ngày 24/6/2020, bị cáo điện thoại hỏi L mua chất ma túy với giá 1.600.000đ thì L đồng ý và thỏa thuận giao chất ma túy tại nhà bị cáo, khi bị cáo đang chờ nhận chất ma túy thì bị Công an huyện Củ Chi phát hiện bắt giữ bị cáo đang tàng trữ 01 gói chất ma túy trong bóp, đến khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày Công an huyện Củ Chi kiểm tra bắt giữ người thanh niên đang tàng trữ trái phép chất ma trúy, qua nhậ dạng bị các xác định người thanh niên bị bắt giữ chính là người đã giao chất ma túy cho bị cáo vào ngày 19/6/2020 và ngày 23/6/2020. Khi bắt giữ, Công an thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 gói chất ma túy mà bị cáo đã mua ngày 23/6/2020.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Võ Kinh L xin vắng mặt. Tại các biên bản đối chất, ông L không thừa nhận có liên lạc bán chất ma túy cho bị cáo Ph và cũng không thừa nhận giao chất ma túy cho bị cáo Kh để bán cho bị cáo Ph. Ông L còn khai nhận số tiền 650.000đ và chiếc xe mô tô biển số 70F1-360.27 là tài sản của ông mua lại của người tên L1 nhưng chưa làm thủ tục sang tên, người bán chỉ giao giấy đăng ký xe, ông L đưa cho bị cáo Kh để mua phụ tùng sửa xe, ông Luân yêu cầu được nhận lại số tiền 650.000đ và chiếc xe mô tô biển số 70F1-360.27 để sử dụng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi giữ quyền công tố phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng Điểm b, i Khoản 2 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Ngô Việt Kh mức án từ 08 (Tám) năm đến 09 (Chín) năm tù.

- Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Văn Ph mức án từ 03 (Ba) năm đến 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có công việc không ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo theo quy định tại Điều 32 và Khoản 5 Điều 249, Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử xử lý như sau:

+ 02 gói niêm phong mang số vụ 1082/2020 và 1083/2020 có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra đề nghị tịch thu tiêu hủy;

+ Trả lại cho ông Võ Kinh L số tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là 650.000đ;

01 xe mô tô biển số 70F1-360.72, số khung: MLE4G021111049970, số máy: G3A2E- 049970, đây là chiếc xe ông L nhận cầm cố của chủ xe là ông Nguyễn Thành L1 với giá 35.000.000đ, trong quá trình điều tra ông L1 xác định do không có tiền chuộc xe nên ông xác định đã bán chiếc xe này, ông không có ý kiến hay khiếu nại gì khác;

+ Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đen, Imei: 869566042514497 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, Imei: 354499096013020;

Bị cáo Ngô Việt Kh không tranh luận, không tự bào chữa. Bị cáo Lê Văn Ph không tranh luận, không tự bào chữa.

Bị cáo Ngô Việt Kh nói lời nói sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình.

Bị cáo Lê Văn Ph nói lời nói sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh; điều luật áp dụng; tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Bị cáo Ngô Việt Kh có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,3593gam, loại Methamphetamine để bán lại cho bị cáo Ph. Ngoài ra, bị cáo Kh đã bán ma túy cho bị cáo Ph 02 lần vào các ngày 19/6/2020 và 23/6/2020. Bị cáo Lê Văn Ph có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,1823gam, loại Methamphetamine mua của bị cáo Kh ngày 23/6/2020 nhằm mục đích sử dụng. Bằng hành vi nêu trên thì bị cáo Ngô Việt Kh đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm b, i Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, bị cáo Lê Văn Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi truy tố bị cáo Ngô Việt Kh về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và truy tố bị cáo Lê Văn Ph về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm, với phương thức sử dụng điện thoại di động liên lạc, thỏa thuận địa điểm giao nhận chất ma túy và nhận tiền nhằm tránh bị phát hiện. Hành vi của các bị cáo chẳng những đã trực tiếp xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về trật tự quản lý hành chính, lĩnh vực quản lý dược liệu, dược phẩm độc hại mà còn gây mất trật tự an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt của mọi người. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo nhận thức rõ rằng chất ma túy là mặt hàng Nhà nước cấm tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là phạm pháp, là tiếp tay cho các phần tử xấu gây nguy hại cho xã hội nhưng các bị cáo vẫn ngang nhiên đi đến hành động phạm tội nhằm thỏa mãn mục đích cá nhân của từng bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý các bị cáo bằng một hình phạt nghiêm khắc là cần thiết.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa. Do vậy, Hội đồng xét xử xét cần áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt là phù hợp quy định pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Do các bị cáo có nghề nghiệp không ổn định nên xét không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 và Khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về vật chứng vụ án:

- 02 gói niêm phong mang số vụ 1082/2020 và 1083/2020 là đối tượng phạm tội nên xét tịch thu tiêu hủy;

- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 650.000đ và 01 xe mô tô biển số 70F1- 360.72, số khung: MLE4G021111049970, số máy: G3A2E-049970. Đây là tài sản riêng của ông Võ Kinh L, bị cáo Kh sử dụng vào việc phạm tội ông L không biết. Tại phiên tòa hôm nay ông L xin vắng mặt nhưng hồ sơ thể hiện ông L yêu cầu được nhận lại số tiền 650.000đ và chiếc xe máy nêu trên để sử dụng, Hội đồng xét xử thấy phù hợp nên chấp nhận;

- 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đen, Imei: 869566042514497 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số Imei: 354499096013020. Đây là phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên xét tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[7] Về các vấn đề khác:

Trong vụ án này theo bị cáo Phụng khai mua chất ma túy của người tên Võ Kinh L, bị cáo Ngô Việt Kh khai Võ Kinh L là người điện thoại bảo bị cáo đi giao chất ma túy cho Lê Văn Ph. Ngày 08/9/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi đã có văn bản số 438/CV-CACC(CSĐT) gửi Tổng công ty viễn thông di động Viettel với nội dung đề nghị cung cấp tên, địa chỉ người đăng ký thuê bao, cung cấp nội dung chi tiết các cuộc gọi đi và gọi đến từ ngày 20/6/2020 đến ngày 24/6/2020 của thuê bao di động số 086.2099513, đến ngày 09/11/2020 vẫn chưa nhận được phúc đáp từ Tổng công ty viễn thông di động Viettel. Đồng thời tại Biên bản đối chất ngày 05/11/2020, Võ Kinh L không thừa nhận bán chất ma túy cho bị cáo Ph và cũng không thừa nhận giao chất ma túy cho bị cáo Kh để bán cho bị cáo Ph, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi chưa đủ cơ sở xử lý hình sự, đề nghị loại trừ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau, đối với người tên M là người đưa chất ma túy cho bị cáo Kh bán cho bị cáo Ph hiện chưa xác minh được nhân thân, lai lịch nên chưa làm việc được, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau, Hội đồng xét xử xét các xử lý trên của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi là phù hợp nên không xét.

[8] Về nghĩa vụ chịu án phí:

Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ngô Việt Kh phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ vào Điểm b, i Khoản 2 Điều 251, Điều 38 và Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Ngô Việt Kh 08 (Tám) 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/6/2020.

2. Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điều 38 và Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Văn Ph 03 (Ba) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/6/2020.

3. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 02 gói niêm phong mang số vụ 1082/2020 và 1083/2020, có chữ ký niêm phong của Cán bộ điều tra và Giám định viên;

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đen, Imei 1: 869566042514497 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số Imei 1: 354499096013020.

- Trả lại cho ông Võ Kinh L số tiền 650.000đ và 01 xe mô tô biển số 70F1- 360.72, số khung: MLE4G021111049970, số máy: G3A2E-049970.

Các vật chứng nêu trên được liệt kê tại Lệnh nhập kho vật chứng số 203/LNK ngày 29/10/2020 (bút lục số 118), Phiếu nhập kho vật chứng số 203/PNK ngày 29/10/2020 (bút lục số 119) của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Củ Chi.

3. Căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật phí và lệ phí năm 2015, Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo Ngô Việt Kh và bị cáo Lê Văn Ph mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

4. Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về