Bản án 08/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 189/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 185/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

TRẦN HUỲNH D; sinh năm 1999 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: đường C, Phường K, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở : đường C, Phường H, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn H (chết) và bà: Huỳnh Thị Thanh T; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: 29/9/2020 (Có mặt) - Bị hại: Chị Nguyễn Thuỳ L, sinh năm 1979; HKTT: đường Đ, Phường L, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :

1/Ông Nguyễn Trọng P, sinh năm 1967; HKTT : đường V, Phường M, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

2/Ông Trần Khánh B, sinh năm 1967; HKTT : đường P, Phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 00 phút ngày 08/9/2020, Trần Huỳnh D đi bộ từ nhà trọ tại địa chỉ số đường C, Phường K, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đến đường Ba Vân để uống cà phê, khi đi ngang quán cà phê Turin tại địa chỉ số đường Trương Công Định, Phường 14, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh nhìn thấy chiếc xe máy hiệu Honda Vision biển số 59C1-861.55 của chị Nguyễn Thùy L dựng trước quán cà phê, khóa công tắc cắm sẵn trên ổ khóa xe, không có người trông coi nên D nảy sinh ý định trộm xe máy để bán lấy tiền tiêu xài. D đi vào quán ngồi tại bàn cách vị trí xe máy của chị L khoảng 02 mét, gọi nước uống và thanh toán tiền nước trước, lợi dụng lúc mọi người không chú ý, D lén lút đi đến ngồi lên xe máy, mở công tắc và điều khiển xe chạy thoát về hướng đường Trương Công Định. Chị L phát hiện xe máy bị mất trộm nhưng do bận công việc và nghĩ không tìm được xe nên chị L không đến cơ quan Công an trình báo.

Sau khi chiếm đoạt xe, D điều khiển xe máy chạy về nhà trọ, trên đường đi D dừng lại mở cốp xe kiểm tra và nhìn thấy 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe máy biển số 59C1-861.55. Đến khoảng 15 giờ cũng ngày, D điều khiển xe máy của chị L đi làm tại tiệm cắt tóc đường Tân Sơn Nhì, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, về nhà vào khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày. Đến khoảng 11 giờ 00 phút ngày 09/9/2020, D điều khiển xe máy của chị L đến cửa hàng xe máy Trọng P tại địa chỉ Kiot số B Lũy Bán Bích, phường Tân Thành, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh bán cho chủ cửa hàng là ông Nguyễn Trọng P với giá 15.000.000 đồng, viết giấy mua bán xe với giá 17.000.000 đồng, D đưa Giấy chứng nhận đăng ký xe máy của chị L, bản photo căn cước công dân và bản photo Sổ hộ khẩu của D cho ông P để làm thủ tục mua bán. Ngày 21/9/2020, ông Nguyễn Trọng P bán lại xe máy trên cho ông Trần Khánh B và đưa Giấy chứng nhận đăng ký xe cho ông B. Ngày 28/9/2020, ông B điều khiển xe máy trên đến nhà số đường Đ, Phường L, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh tìm gặp chị L để ký giấy mua bán, chị L cho biết xe bị mất trộm vào ngày 08/9/2020 nên cùng ông B đến Công an Phường 14, quận Tân Bình trình báo. Qua truy xét, cơ quan Công an mời làm việc, D thừa nhận hành vi chiếm đoạt xe máy hiệu Honda Vision biển số 59C1-861.55 của chị Nguyễn Thùy L.

Quá trình điều tra, Trần Huỳnh D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Khi bán xe máy cho ông Nguyễn Trọng P, D không nói cho ông P nguồn gốc xe do trộm cắp mà có, số tiền bán xe D tiêu xài cá nhân hết.

Đối với ông Nguyễn Trọng P, ông Trần Khánh B mua xe máy của bà L nhưng không biết nguồn gốc xe máy là do trộm cắp mà có, do đó hành vi không cấu thành tội phạm.

Vật chứng thu giữ:

- 01 chiếc xe máy hiệu Honda Vision biển số 59C1-861.55, Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 268/HĐĐGTC- TTHS ngày 13/11/2020 của Ủy ban nhân dân quận Tân Bình xe trị giá 26.000.000 đồng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã trả xe máy cho chị Nguyễn Thuỳ L.

- 01 USB chứa dữ liệu camera liên quan đến vụ án được lưu hồ sơ vụ án;

- 01 giấy bán xe có chữ ký người bán là Nguyễn Trọng P, chữ ký người mua là Trần Tư D (con ruột của ông Trần Khánh B) được lưu hồ sơ vụ án;

- 01 giấy bán xe có chữ ký người bán là Trần Huỳnh D, 01 bản photo thẻ Căn cước công dân mang tên Trần Huỳnh D và 01 bản photo Sổ hộ khẩu chủ hộ là Huỳnh Văn T được lưu hồ sơ vụ án;

- Ông P tự nguyện giao nộp số tiền 22.900.000 đồng, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giao trả cho ông Trần Khánh B.

- Bà Huỳnh Thị Thanh T (mẹ của D) tự nguyện giao nộp số tiền 15.000.000 đồng, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giao trả cho ông Nguyễn Trọng P.

Tại bản cáo trạng số 173/CT-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Trần Huỳnh D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, do cần tiền tiêu xài nên khi thấy tài sản bị cáo nảy sinh lòng tham thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, bào chữa mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Trần Huỳnh D, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Bị cáo có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe máy hiệu Honda Vision biển số 59C1-861.55 trị giá 26.000.000 đồng của chị Nguyễn Thùy L. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Huỳnh D đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam, tư lợi nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thuỳ L, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Trọng P và ông Trần Khánh B đã nhận lại tài sản không có ý kiến yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Trần Huỳnh D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo : TRẦN HUỲNH D 01(Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam: 29/9/2020.

[2] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[3] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

705
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về