TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 08/2021/HS-PT NGÀY 26/02/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 99/2020/TLPT-HS ngày 30 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Giang Đ do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Giang Đ và bị hại Trần Thị H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 23/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Phú Yên.
Bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo: Nguyễn Giang Đ, sinh năm 1984 tại tỉnh Phú Yên; nơi ĐKTT: Khu phố T, thị trấn C, huyện S, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 11/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị H (chết); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/7/2020 đến ngày 10/7/2020. Bị cáo tại ngoại, vắng mặt (Lần thứ hai).
Bị hại có kháng cáo: Bà Trần Thị H, sinh năm 1947; nơi cư trú: thôn M, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt (Lần thứ hai).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 29/6/2020, Nguyễn Giang Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 78L1-105.95 của bà Cao Thị N đi từ C lên xã P để chở ông Nguyễn Huy B (chồng bà N). Khoảng 09 giờ cùng ngày, Đ đi đến đoạn thôn M, xã S, huyện S. Do hết tiền điện thoại nên Đ vào hàng tạp hóa của bà Trần Thị H, sinh năm 1947, trú cùng thôn hỏi mua 01 card điện thoại mệnh giá 20.000đ. Đ đưa cho bà H 200.000đ, bà H đưa cho Đ 01 card điện thoại và 80.000đ, rồi tiếp tục lấy quyển sổ bên trong có số tiền 6.600.000đ để thối tiền cho Đ. Thấy bà H đang cầm tiền, Đ nảy sinh ý định chiếm đoạt. Đ giật lấy số tiền trên tay bà H rồi nhanh chóng chạy ra điều khiển xe mô tô lên hướng xã S. Sau đó về đến thôn P, xã S, huyện S, Đ sợ bị phát hiện nên đã giấu số tiền giật được vào đám đất ven đường. Sự việc xảy ra, Công an huyện S nhận được tin báo đã tổ chức khám nghiệm hiện trường, tạm giữ vật chứng để điều tra, xử lý.
Ngày 30/6/2020, Đ lấy số tiền 6.600.000 đồng nhờ Nguyễn Xuân K và Nguyễn Thanh Q cùng Đ đến nhà bà H để trả lại số tiền. Ngày 01/7/2020 Đ đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện S đã tuyên Nguyễn Giang Đ phạm tội “Cướp giật tài sản” áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự phạt bị cáo Nguyễn Giang Đ 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/7/2020 đến ngày 10/7/2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên phần án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 10/12/2020, bị cáo Nguyễn Giang Đ kháng cáo xin được hưởng án treo; bị hại Trần Thị H kháng cáo xin cho bị cáo Nguyễn Giang Đ được hưởng án treo.
Tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử đọc đơn kháng cáo của bị cáo, bị hại.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Giang Đ và kháng cáo của người bị hại Trần Thị H – Sửa bản án sơ thẩm. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Giang Đ 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 03 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 28/01/2021 Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên Quyết định mở phiên tòa phúc thẩm để xem xét kháng cáo xin hương an treo c ủa bị cáo Nguyễn Giang Đ và bị hại Trần Thị H, nhưng bị cáo có đơn xin hoãn phiên tòa, nên Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã Quyết định Hoãn phiên tòa đồng thời ấn định thời gian mở lại phiên tòa vào hồi 07 giờ 30 ngày 26/02/2021. Tuy nhiên, ngày 26/02/2021 bị cáo, bị hại tiếp tục vắng mặt lần 02 không có lý do. Xét sự vắng mặt của bị cáo, bị hại không gây trở ngại cho việc xét xử, nên Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên tiến hành xét xử vụ án theo điểm a khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Giang Đ tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, đều phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại về thời gian, địa điểm phạm tội, tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phúc thẩm đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 29/6/2020 tại nhà bà Trần Thị H thuộc thôn M, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên bị cáo Nguyễn Giang Đ lợi dụng sơ hở của bị hại đã có hành vi giật lấy 6.600.000 đồng của bà Trần Thị H (là người già yếu) rồi nhanh chóng tẩu thoát. Ngày 30/6/2020, Đ trả lại cho bà H 6.600.000đồng, ngày 01/7/2020 Đ đến cơ quan Công an huyện S đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình nên cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Giang Đ về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương nên cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Xét kháng cáo của bị cáo và bị hại Hội đồng xét xử thấy: Khi lượng hình án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng đó là: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; khắc phục và bồi thường toàn bộ thiệt hại; được bị hại bãi nại xin cho bị cáo được hưởng án treo; sau khi phạm tội bị cáo đã đến Công an huyện S đầu thú quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Giang Đ 01 năm 06 tháng tù và không cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại - Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt để có đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo.
[4] Bị cáo Nguyễn Giang Đ kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo hoặc kháng nghị nên cấp phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Giang Đ và kháng cáo của bị hại Trần Thị H – Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Giang Đ phạm tội “Cướp giật tài sản”;
Áp dụng điểm g Khoản 2 Điều 171; Điểm b, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Giang Đ – 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/7/2020 đến ngày 10/7/2020.
Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức, thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Bị cáo Nguyễn Giang Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 08/2021/HS-PT ngày 26/02/2021 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 08/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về