Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 990/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/01/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Lệ T– sinh năm 1983 Địa chỉ: Lô 4, ô 19, B, phường VH, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

- Bị đơn: Anh Cao Văn T– sinh năm 1974 Địa chỉ: Số 162/4 khu 2 ấp TH, xã HN3, huyện TB, tỉnh Đồng Nai.

(chị T, anh T vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lệ T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Ttự nguyện yêu thương và có đăng ký kết hôn ngày 15/01/20001 tại UBND xã HN3, huyện Thống Nhất nay là huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do vợ chồng không có tiếng nói chung với nhau, anh T có tính gia trưởng độc tài, không lắng nghe ý kiến của chị dẫn đến việc vợ chồng thường xuyên xô xát làm mất tình cảm. Từ đầu năm 2019, vợ chồng không chung sống với nhau. Nhận thấy tình cảm của chị đối với anh Thịnh không còn. Do vậy, chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Cao Văn T.

- Về con chung: Vợ chồng chung sống có 02 (hai) con chung là Cao Ngọc Hoàng A, sinh năm 2001 và Cao Quân B, sinh ngày 19/02/2009. Khi ly hôn thì chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu B và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu A đã thành niên và có khả năng lao động, vì vậy chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Kng yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Cao Văn T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh T và chị T tự nguyện yêu thương và có đăng ký kết hôn ngày 15/01/2001 tại UBND xã HN 3, huyện Thống Nhất (cũ) nay là huyện TB, tỉnh Đồng Nai.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do vợ chồng không có tiếng nói chung với nhau. Từ đầu năm 2019, vợ chồng không chung sống với nhau do chị T và anh T thỏa thuận với nhau mục đích là để chị T muốn được đi làm tự do. Nay tình cảm của tôi đối với chị T vẫn còn. Do vậy, chị T yêu cầu ly hôn với anh thì anh không đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Vợ chồng chung sống có 02 (hai) con chung là Cao Ngọc Hoàng A, sinh năm 2001 và Cao Quân B, sinh ngày 19/02/2009. Khi ly hôn thì anh đồng ý giao cháu B cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với cháu A đã thành niên và có khả năng lao động, vì vậy anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Kng yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về nội dung: Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thủ tục hòa giải, thời hạn chuẩn bị xét xử, quyết định xét xử, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng; việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được Tòa án thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Đơn khởi kiện xin ly hôn của chị T là có cơ sở chấp nhận nên đề nghị cho chị T được ly hôn với anh T. Về con chung: Giao cháu B cho chị T nuôi dưỡng, tạm thời anh T không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự trình bày không có nên đề nghị không đặt ra xem xét. Về án phí: Đương sự phải nộp án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Chị Nguyễn Thị Lệ T yêu cầu ly hôn với anh Cao Văn T sinh năm: 1974 có nơi cư trú tại: Số 162/4 khu 2 ấp TH, xã HN 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì quan hệ pháp luật là “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

[2] Về Thủ tục tố tụng: Nguyên đơn – là chị Nguyễn Thị Lệ T, bị đơn – là anh Cao Văn T có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 22, 23 tháng 12 năm 2020.

Do vậy, căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị T và anh T.

[3] Về yêu cầu khởi kiện:

3.1 - Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh T được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 15 tháng 01 năm 2001, hôn nhân của chị T và anh T phù hợp với các Điều 9; Điều 11; Đều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, do vậy đây là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Chị T giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với anh Cao Văn T.

Chị T và anh T đều thừa nhận cuộc sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, do không có sự tin tưởng nhau về vấn đề kinh tế lẫn tình cảm, vợ chồng không có sự thông cảm và chia sẻ. Từ đầu năm 2019 thì vợ chồng không sống chung với nhau, không ai quan tâm, chăm sóc nhau, mạnh ai người đó sống, vợ chồng không thương yêu, quý trọng nhau, vi phạm nghĩa vụ vợ chồng với nhau. Anh T cho rằng vẫn còn tình cảm với chị T và có nguyện vọng được đoàn tụ gia đình, tuy nhiên anh T không đưa ra biện pháp nào để hàn gắn tình cảm với chị T.

Từ những nhận định, phân tích trên, xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị T yêu cầu ly hôn với anh T là có căn cứ phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014 xét cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Lệ T.

3.2 - Về con chung: Chị T và anh T có 02 (hai) con chung là Cao Ngọc Hoàng A, sinh năm 2001 và Cao Quân B, sinh ngày 19/02/2009. Hiện cháu B đang được chị T trực tiếp chăm sóc. Hơn nữa, cháu B có nguyện vọng được ở chung với mẹ. Vì vậy để ổn định cuộc sống của con trẻ, đảm bảo cho con có môi trường sống và phát triển tốt nhất, cần tiếp tục giao cháu Bảo cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là đúng theo quy định của pháp luật.

Đối với cháu A đã thành niên và có khả năng lao động, do vậy HĐXX không giải quyết.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Do vậy, tạm thời anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

3.3. Về tài sản chung: Chị T, anh T không yêu cầu giải quyết.

3.4. Về nợ chung: Chị T, anh T trình bày không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[5] Xét, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 28; 35; 39; 147; 220; 227; 228; 264 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng các Điều 9; Điều 11; Điều 12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000;

- Áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Lệ T về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” với anh Cao Văn T.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Lệ T được ly hôn với anh Cao Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Cao Quân B, sinh ngày 19/02/2009 cho chị Nguyễn Thị Lệ T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Tạm thời anh Cao Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Cao Văn T được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung khi cần thiết các đương sự được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Lệ T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị T đã nộp theo biên lai thu số 0006162 ngày 24 tháng 11 năm 2020 tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Chị T đã nộp đủ tiền án phí.

5. Chị Tr, anh Tđược quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về