Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 19/05/2021 về không công nhận vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2021 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG

Ngày 19 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 59/2021/TLST- HNGĐ, ngày 26/4/2021 về việc “Không công nhận vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/5/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L - sinh năm 1979.

Địa chỉ: TDP B, thị trấn K, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H - sinh năm 1973.

Địa chỉ: TDP B, thị trấn K, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.

(Nguyên đơn có mặt; Bị đơn vắng mặt – có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26/3/2021, bản tự khai và tại phiên tòa các đương sự, trình bày:

- Bà Nguyễn Thị L với ông Nguyễn Văn H tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1999, nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Cuộc sống gia đình hòa thuận được đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông H thường xuyên chơi cờ bạc, bà L khuyên nhièu lần nhưng không có kết quả, cũng xuất phát từ đó mà bà L và ông H xảy ra cãi nhau thường xuyên. Bà L và ông H đã không còn chung sống với nhau từ năm 2017 đến nay, xét thấy không thể chịu đựng được nữa nên bà L làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố không công nhận vợ chồng giữa bà L và ông H. Ông Nguyễn Văn H cũng đồng ý với yêu cầu của bà Nguyễn Thị L, đề nghị Tòa án không nhận là vợ chồng.

- Về con chung: Trong quá trình chung sống bà L và ông H có 02 người con chung, tên là: Nguyễn Thị Kim C – sinh năm 1999 và Nguyễn Văn C – sinh năm 2001.

Cả hai người con chung đều đã đủ 18 tuổi có đầy đủ sức khỏe nên bà L và ông H đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: bà L và ông H thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Bông trình bày quan điểm đối với việc giải quyết vụ án như sau:

Về tố tụng: Quá trình thu thập chứng cứ của vụ án từ khi thụ lý cho đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán đã giải quyết đúng trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và đương sự đã chấp hành tốt các quy định của pháp luật về phiên toà sơ thẩm. Bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, việc HĐXX vẫn tiến hành xét xử là bảo đảm đúng thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Nguyên đơn thực hiện quyền khởi kiện, cung cấp đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 14; Điều 15; Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Không công nhận bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Văn H là vợ chồng. Đối với con chung đều đã đủ 18 tuổi nên không đặt ra để giải quyết, về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết do đương sự không yêu cầu.

Về án phí: Bà L phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày và xác nhận của đương sự trước phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Bà Nguyễn Thị L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc không công nhận quan hệ vợ chồng với ông Nguyễn Văn H là quan hệ pháp luật tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc trường hợp không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 8 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền.

Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn H có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án: Bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Văn H chung sống với nhau như vợ chồng trên cơ sở tự nguyện từ năm 1999 nhưng đến nay vẫn chưa đến Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú để đăng ký kết hôn là vi phạm Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình. Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng….”. Cuộc sống gia đình hòa thuận được đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông H thường xuyên chơi cờ bạc, bà L khuyên nhiều lần nhưng không có kết quả, cũng xuất phát từ đó mà bà L và ông H xảy ra cãi nhau thường xuyên. Bà L và ông H đã không còn chung sống với nhau từ năm 2017 đến nay, xét thấy không thể chịu đựng được nữa nên bà L làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố không công nhận vợ chồng giữa bà L và ông H. Ông Nguyễn Văn H cũng đồng ý với yêu cầu của bà L. Vì vậy, HĐXX cần tuyên bố không công nhận bà L và ông H là vợ chồng.

[3] Về con chung: bà L và ông H có 2 người con chung là: Nguyễn Thị Kim C – sinh năm 1999 và Nguyễn Văn C – sinh năm 2001. Cả hai người con đều đã đủ 18 tuổi, có đủ sức khỏe, tự lo được cho cuộc sống của mình, các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra để giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự thống nhất không yêu cầu nên không đặt ra để xem xét.

[5] Về án phí: bà L phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 48; Điều 203; Điều 220; khoản 1 Điều 227; Điều 266; Điều 271; Điều 273; Điều 278; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1]. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L. Không công nhận bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Văn H là vợ chồng.

[2]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ mà bà L đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0004771 ngày 26/4/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Bông. Bà L đã nộp đủ.

[3]. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 19/05/2021 về không công nhận vợ chồng

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Bông - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về