Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 17/09/2021 về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN 

Ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Kạn xét xử công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 131/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2021 về việc “Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2021/QĐXXST- HNGĐ, ngày 25 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H; sinh năm 1984.

Địa chỉ: Tổ 6, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

* Bị đơn: Anh Lê Đức H; sinh năm 1980.

Nơi ĐKHKTT: Tổ 6, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

Hiện nay anh Lê Đức H đang thi hành án tại Đội 25, Phân trại 6, Trại Giam Phú Sơn 4, Cục C10, Bộ Công an.

Vắng mặt, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đồng Thị L; sinh năm 1954; địa chỉ: Tổ 6, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

Vắng mặt, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

* Những người làm chứng:

1- Bà Lê Thu H; sinh năm 1976; trú tại: Tổ 3, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

2- Bà Lê Thị H1; sinh năm 1983; trú tại: Tổ 10B, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

Đều vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn – chị Vũ Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Lê Đức H trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thị xã B (nay là thành phố B), tỉnh Bắc Kạn vào ngày 21/11/2003. Quá trình chung sống giữa hai vợ chồng mấy năm đầu hòa thuận, hạnh phúc. Nhưng về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp tính tình, bất đồng trong sinh hoạt hàng ngày, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Mặt khác anh H là người có nhược điểm trong sinh hoạt là nghiện chất ma túy, mặc dù đã bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhiều lần nhưng sau khi trở về địa phương anh H vẫn không cai nghiện được. Từ năm 2015 đến nay anh H liên tiếp vi phạm pháp luật nên hiện vẫn đang chấp hành án tại Trại Giam Phú Sơn 4 - Bộ Công an còn khoảng hơn một năm nữa mới chấp hành xong. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, việc tồn tại hôn nhân với anh H không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, chị không còn tình cảm với anh H nữa nên chị kiên quyết xin được ly hôn anh Lê Đức H.

-Về con chung: Vợ chồng chị có 02 (hai) con chung, con lớn tên là Lê Thu Tr, sinh ngày 30/11/2004, con nhỏ tên là Lê Đức Th, sinh ngày 07/10/2007. Các con chung đều khỏe mạnh và phát triển bình thường. Hiện các con đang sống cùng bà nội là bà Đồng Thị L tại tổ 6, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

Khi ly hôn, chị có nguyện vọng giao con chung Lê Thu Tr, sinh ngày 30/11/2004 và Lê Đức Th, sinh ngày 07/10/2007 cho anh Lê Đức H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi các con đủ 18 tuổi. Tuy nhiên hiện nay, anh H đang phải chấp hành án đến cuối năm 2022 thì xong. Trong thời gian anh H phải thi hành án, chị đề nghị Tòa án tiếp tục cho phép bà nội của các con là bà Đồng Thị L thay anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các cháu Lê Thu Tr và Lê Đức Th cho đến khi anh H thi hành án xong trở về thì anh H sẽ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các con đến khi các con đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H tự nguyện cấp dưỡng hàng tháng để nuôi hai con Lê Thu Tr và Lê Đức Th với số tiền là 1.000.000đ (Một triệu đồng)/con/ tháng cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

-Về tài sản chung, nợ chung:

+ Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Bị đơn anh Lê Đức H trong quá trình tố tụng trình bày:

Do hiện nay anh H đang phải chấp hành án tại Phân trại 6, Trại giam Phú Sơn 4, Cục C10 - Bộ Công an nên Tòa án đã ủy thác cho Trại giam Phú Sơn 4 tiến hành tống đạt thông báo thụ lý và lấy lời khai của anh H theo quy định của pháp luật. Tại biên bản ghi lời khai và bản tự khai, anh H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh với chị Vũ Thị H kết hôn với nhau từ năm 2003, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Đ. Sau khi kết hôn, quá trình chung sống hai vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn. Song từ năm 2017, anh H phạm tội và phải đi chấp hành án phạt 07 năm 06 tháng tù tại Trại giam Phú Sơn 4. Trong thời gian anh đi chấp hành án, giữa hai vợ chồng cũng không có mâu thuẫn gì lớn. Tuy nhiên, tình cảm vợ chồng đã phai nhạt dần. Nay chị H xin ly hôn với anh thì anh hoàn toàn nhất trí.

- Về con chung: Vợ chồng anh có 02 (hai) con chung, con lớn tên là Lê Thu Tr, sinh ngày 30/11/2004, con nhỏ tên là Lê Đức Th, sinh ngày 07/10/2007. Các con chung đều khỏe mạnh và phát triển bình thường. Hiện nay các con đang sống cùng bà nội là bà Đồng Thị L tại tổ 6, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

Khi ly hôn, anh có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các con chung. Trong thời gian chưa chấp hành án xong, anh H nhờ mẹ đẻ của mình là bà Đồng Thị L, địa chỉ:Tổ 6, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn thay anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các con chung Lê Thu Tr và Lê Đức Th cho đến khi anh Hthi hành án xong trở về địa phương thì anh H sẽ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các con đến khi các con đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh H không đề cập đến vấn đề yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đồng Thị L trong quá trình tố tụng trình bày:

Từ nhỏ đến lớn, các con chung của chị Vũ Thị H và anh Lê Đức H là các cháu Lê Thu Tr và Lê Đức Th vẫn sống cùng gia đình bà. Nay chị H đã đi ra khỏi nhà bà, không có nhà cửa và nơi ở ổn định; chị H lại làm lao động tự do, công việc làm và thu nhập không ổn định, không có đủ điều kiện để nuôi dạy các con. Gia đình bà từ trước đến nay vẫn mở cửa hàng kinh doanh đồ điện dân dụng tại nhà. Thu nhập của bà khoảng 15.000.000đ/tháng. Hiện tại sức khỏe của bà khỏe mạnh, bình thường, có nhà cửa và thu nhập ổn định, đảm bảo việc nuôi dạy và chăm sóc hai cháu. Do vậy, khi vợ chồng chị H và anh H ly hôn thì bà có nguyện vọng được thay anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các cháu cho đến khi anh H thi hành án xong trở về thì bà sẽ giao các cháu lại cho anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Bà có ý kiến đề nghị chị H cấp dưỡng nuôi hai cháu Lê Thu Tr và Lê Đức Th, mỗi cháu 1.000.000đ (Một triệu đồng)/tháng, tổng mức cấp dưỡng cho hai cháu là 2.000.000đ (Hai triệu đồng)/ tháng đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.

Qua lấy lời khai của một số người làm chứng là chị Lê Thu H và chị Lê Thị H1 (là chị chồng và em chồng của chị H) thì họ đều cho biết sau khi chị H và anh H kết hôn thì mấy năm đầu vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc, nhưng về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hòa hợp tính tình, bất đồng trong sinh hoạt hàng ngày, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, tình cảm vợ chồng ngày càng nguội lạnh do anh Lê Đức H nghiện ma túy và vi phạm pháp luật hình sự phải đi chấp hành án ở Trại giam Phú Sơn 4 trong thời gian dài vì vậy không thể vun đắp được tình cảm vợ chồng, khiến cho tình cảm vợ chồng phai nhạt dần, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc.

Tòa án đã gặp Tổ trưởng và Chi hội trưởng Chi hội phụ nữ tổ 6, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn để xác minh tình trạng hôn nhân của chị Vũ Thị H và anh Lê Đức H; nơi ở, công việc, điều kiện kinh tế, sức khỏe của chị Vũ Thị H và bà Đồng Thị L. Qua trao đổi, Tòa án được cung cấp thông tin như sau: Chị Vũ Thị H và anh Lê Đức H đăng ký kết hôn vào năm 2003. Sau khi kết hôn, chị H và anh H chung sống cùng bố mẹ anh H tại nhà riêng ở tổ 6, phường Đ, thành phố B. Quá trình chung sống, mấy năm đầu vợ chồng hòa thuận hạnh phúc nhưng về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị H và anh H không hòa hợp tính tình, bất đồng trong sinh hoạt hàng ngày, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, mặt khác anh H là người nghiện ma túy, nhiều lần bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng vẫn không cai nghiện được. Từ năm 2017, anh H phải đi chấp hành án tại Trại giam Phú Sơn 4 dẫn đến tình cảm vợ chồng giữa chị H, anh H phai nhạt dần, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Tuy nắm được vợ chồng chị H và anh Hcó mâu thuẫn trong suốt thời gian dài nhưng chị H, anh H cũng chưa nhờ đến sự can thiệp và hòa giải của tổ phố hay Chi hội phụ nữ để giải quyết những mâu thuẫn đó.

Về điều kiện kinh tế của chị H và bà L: Chị H là lao động tự do, thu nhập không ổn định, thời gian gần đây chị H đã bỏ đi khỏi nhà, không thấy về sống tại nhà bà L nữa. Còn bà L là công dân đang sinh sống và có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ. Bà L mở cửa hàng bán đồ điện gia dụng tại nhà riêng, thu nhập cao và khá ổn định, tình trạng sức khỏe của bà L khỏe mạnh, bình thường.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Kạn tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký thực hiện đúng quy định của pháp luật; nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chấp hành đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình Tòa án mở phiên tòa để xét xử, nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt; những người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Do vậy đề nghị HĐXX căn cứ Điều 227; Điều 228; khoản 2 Điều 229; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83, 104 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Vũ Thị H.

+ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị H được ly hôn với anh Lê Đức H.

+ Về nuôi con chung: Giao con chung Lê Thu Tr, sinh ngày 30/11/2004 và Lê Đức Th, sinh ngày 07/10/2007 cho anh Lê Đức H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi các con đủ 18 tuổi. Trong thời gian anh Lê Đức H còn đang chấp hành án, tạm giao hai cháu Lê Thu Tr, sinh ngày 30/11/2004 và Lê Đức Th, sinh ngày 07/10/2007 cho bà Đồng Thị L (là bà nội của cháu Lê Thu Tr và Lê Đức Th) thay anh Lê Đức H thực hiện việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các cháu Lê Thu Tr và cháu Lê Đức Th cho đến khi anh H chấp hành án xong.

+ Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thị H có trách nhiệm cấp dưỡng hàng tháng để nuôi hai con Lê Thu Tr, sinh ngày 30/11/2004 và Lê Đức Th, sinh ngày 07/10/2007 với số tiền là 1.000.000đ (Một triệu đồng)/con/ tháng cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Chị H và anh H đều xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét.

+ Về án phí: Nguyên đơn chị Vũ Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Vũ Thị H có đơn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố B giải quyết vụ việc ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn với bị đơn anh Lê Đức H có hộ khẩu thường trú tại tổ 6, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

Quá trình giải quyết vụ án, chị H đã có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án được là phù hợp theo quy định tại khoản 4 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị Vũ Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Lê Đức H và bà Đồng Thị L đều có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt; những người làm chứng vắng mặt không có lý do, do vậy căn cứ Điều 227; Điều 228; khoản 2 Điều 229; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H và anh Lê Đức H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thị xã B (nay là thành phố B), tỉnh Bắc Kạn vào ngày 21/11/2003. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị sinh sống cùng gia đình chồng tại tổ 6, phường Đ, thị xã B (nay là thành phố B), tỉnh Bắc Kạn. Việc kết hôn của chị H và anh H trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm các điều cấm kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình vì vậy, hôn nhân của chị H và anh H là hợp pháp.

Quá trình chung sống giữa hai vợ chồng mấy năm đầu hòa thuận, hạnh phúc. Nhưng về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp tính tình, bất đồng trong sinh hoạt hàng ngày, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống; mặt khác anh H là người có nhược điểm trong sinh hoạt là nghiện chất ma túy, mặc dù đã bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhiều lần nhưng sau khi trở về địa phương anh H vẫn không cai nghiện được. Từ năm 2015 đến nay anh H liên tiếp vi phạm pháp luật nên hiện vẫn đang chấp hành án tại Trại Giam Phú Sơn 4 - Bộ Công an còn khoảng hơn một năm nữa mới chấp hành xong. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, việc tồn tại hôn nhân với anh H không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, chị không còn tình cảm với anh H nữa nên chị kiên quyết xin được ly hôn anh Lê Đức H.

Qua lời khai của những người làm chứng và qua xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân của chị H, anh H, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh H là thực tế. Sau khi kết hôn, anh H không có trách nhiệm với vợ con, không lo làm ăn mà chơi bời, nghiện ngập ma túy, mặc dù đã bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhiều lần nhưng sau khi trở về địa phương anh H vẫn không cai nghiện được. Từ năm 2015 đến nay anh H liên tiếp vi phạm pháp luật nên hiện vẫn đang chấp hành án tại Trại Giam Phú Sơn 4 - Bộ Công an. Từ khi chị H kết hôn với anh H đến nay, phần lớn thời gian là anh H phải đi cai nghiện ma túy và đi chấp hành án, dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng ngày càng nguội lạnh, đời sống chung đã không còn và mục đích hôn nhân không đạt được, việc duy trì quan hệ hôn nhân cũng không đem lại hạnh phúc cho anh chị. Do vậy việc chị H xin ly hôn với anh H là có cơ sở, phù hợp với quy định tại Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có căn cứ chấp nhận.

[3]. Về nuôi con chung: Vợ chồng chị H, anh H có 02 (hai) con chung, con lớn tên là Lê Thu Tr, sinh ngày 30/11/2004, con nhỏ tên là Lê Đức Th, sinh ngày 07/10/2007. Các con chung đều khỏe mạnh và phát triển bình thường. Hiện các con đang sống cùng bà nội là bà Đồng Thị L tại tổ 6, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

Khi ly hôn, chị H và anh H đều có nguyện vọng là giao 02 con chung cho anh Lê Đức H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi các con đủ 18 tuổi. Tuy nhiên hiện nay, anh H đang phải chấp hành án tại Trại giam Phú Sơn 4 - Bộ Công an. Trong thời gian chưa chấp hành án xong, anh H nhờ mẹ đẻ của mình là bà Đồng Thị L, địa chỉ tại tổ 6, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn thay anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 con chung là Lê Thu Tr và Lê Đức Th đến khi anh H chấp hành án xong, trở về địa phương sẽ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các con chung đến khi đủ 18 tuổi.

Quá trình làm việc tại Tòa án, các cháu Lê Thu Tr và Lê Đức Th có nguyện vọng được sống với bố và bà nội; bà Đồng Thị L cũng có ý kiến trình bày: Bà có nguyện vọng là muốn được tiếp tục thay anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục hai cháu Lê Thu Tr và Lê Đức Th cho đến khi anh H chấp hành án xong trở về thì bà sẽ giao hai cháu lại cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng.

Xét thấy, 02 cháu Lê Thu Tr và Lê Đức Th từ trước đến nay vẫn sống ổn định với mẹ và bà nội, được hưởng các điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc tốt nên các cháu phát triển tốt cả về thể chất lẫn tinh thần. Mặt khác, hiện nay thời gian mà anh H phải chấp hành án cũng sắp hết (còn khoảng hơn 01 năm), sau khi chấp hành xong anh H trở về nhà, tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 cháu Lê Thu Tr và Lê Đức Th là phù hợp. Hiện nay bà nội của các cháu là bà Đồng Thị L có nhà cửa ổn định, có mở cửa hàng bán đồ điện gia dụng tại nhà riêng, thu nhập cao và khá ổn định, tình trạng sức khỏe của bà L khỏe mạnh, bình thường, đảm bảo đủ điều kiện để thay anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu trong thời gian anh H chấp hành án. Nếu giao các con chung cho bố là anh Lê Đức H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục thì các con tiếp tục được bà nội nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, học tập ổn định. Mọi quyền lợi, điều kiện về vật chất sẽ được đảm bảo tốt nhất để các cháu phát triển bình thường.

Về phần chị H làm lao động tự do, công việc và thu nhập không ổn định, chị H hiện nay đã đi ra khỏi nhà bà L, không có nhà ở, phải đi thuê phòng trọ, thay đổi chỗ ở thường xuyên, bản thân lại chỉ có một mình nên nếu giao các con chung cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng thì sẽ ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt, cuộc sống, học tập của các con.

Từ những cơ sở trên, xét thấy để đảm bảo quyền lợi và các điều kiện tốt nhất cho các con chung, cần thiết giao 02 con chung Lê Thu Tr và Lê Đức Th cho bố là anh Lê Đức H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Trong thời gian anh H chưa chấp hành án xong, anh H nhờ bà L thay anh H thực hiện việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 cháu Lê Thu Tr và Lê Đức Th cho đến khi anh H chấp hành án xong, trở về địa phương sẽ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 cháu Lê Thu Tr và Lê Đức Th cho đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp, cần được chấp nhận.

[4].Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Trong biên bản nêu ý kiến, anh Lê Đức H không đề cập đến yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, trong biên bản lấy lời khai tại Tòa án, bà Đồng Thị L có ý kiến đề nghị chị Vũ Thị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 02 con Lê Thu Tr và Lê Đức Thvới số tiền là 1.000.000đ (Một triệu đồng)/con/ tháng cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

Quá trình giải quyết vụ án, chị H cũng có ý kiến chị tự nguyện cấp dưỡng hàng tháng để nuôi hai con Lê Thu Tr và Lê Đức Th với số tiền là 1.000.000đ (Một triệu đồng)/con/ tháng cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

Xét thấy ý kiến của chị H là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên cần được chấp nhận.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Chị H và anh H đều xác định vợ chồng không có tài sản sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: Nguyên đơn chị Vũ Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[7] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, các Điều 35, 39, 227, 228, 229, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83, 104 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn Vũ Thị H. Chị Vũ Thị H được ly hôn với anh Lê Đức H.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Lê Thu Tr, sinh ngày 30/11/2004 và Lê Đức Th, sinh ngày 07/10/2007 cho anh Lê Đức H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi các con đủ 18 tuổi. Trong thời gian anh Lê Đức H còn đang chấp hành án, tạm giao hai cháu Lê Thu Tr và Lê Đức Th cho bà Đồng Thị L (là bà nội của cháu Lê Thu Tr và Lê Đức Th) thay anh Lê Đức H thực hiện việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các cháu cho đến khi anh H chấp hành án xong.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3.Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thị H có trách nhiệm cấp dưỡng hàng tháng để nuôi hai con Lê Thu Tr, sinh ngày 30/11/2004 và Lê Đức Th, sinh ngày 07/10/2007 với số tiền là 1.000.000đ (Một triệu đồng)/con/ tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi phát sinh một trong các điều kiện chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 118 Luật hôn nhân và gia đình.

Việc thi hành án khoản tiền cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự.

“1.Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này”.

Vì lợi ích của các con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Chị H và anh H đều xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Nguyên đơn chị Vũ Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con chung nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 02255 ngày 15/7/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bắc Kạn. Chị Vũ Thị H còn phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 17/09/2021 về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn 

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về