Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 183/2020/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/12/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 117/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28/12/2020, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị X, sinh năm 1989. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện Gi, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Vũ Đình T, sinh năm 1983.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn Đ, xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Hàn Quốc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đặng Thị X trình bày: Chị và anh Vũ Đình T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương vào ngày 21/11/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh T được khoảng một tháng thì anh T đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc. Trong thời gian làm ăn tại Hàn Quốc anh vẫn thỉnh thoảng liên lạc về cho gia đình và có về thăm gia đình một lần. Kể từ tháng 6/2016, anh cắt liên lạc không quan tâm đến gia đình vợ con. Đến tháng 10/2019, anh T lại liên lạc trở lại và xin lỗi gia đình nhưng không nói lý do. Chị và gia đình nghĩ anh chơi bời, thua lỗ nên đã tha thứ cho anh nhưng anh không thay đổi, không quan tâm đến vợ con. Chị xác định từ khi kết hôn đến nay thời gian vợ chồng chung sống với nhau quá ngắn, vợ chồng không có sự quan tâm, chia sẻ và không tìm được tiếng nói chung, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Vũ Hải L, sinh ngày 04/8/2012, hiện đang ở với chị, chị đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại lời khai của bà Hoàng Thị L (mẹ đẻ anh T) xác định, anh T hiện đang sinh sống và lao động tại Hàn Quốc, bà không biết địa chỉ cụ thể nên không cung cấp cho Tòa án được. Tuy nhiên anh T vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình qua điện thoại. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh T biết. Anh Tiếp có quan điểm nhất trí ly hôn, nhất trí để chị X nuôi con Vũ Hải L; tài sản chung không đề nghị Tòa án giải quyết, anh Tiếp đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Con chung chị Xuân, anh T là Vũ Hải L có nguyện vọng được ở với chị X.

Tòa án xác minh tại khu dân cư, đoàn thể, chính quyền địa phương nơi chị X, anh T đăng ký kết hôn và cư trú thể hiện: Chị X, anh T sau khi đăng ký kết hôn được một thời gian ngắn thì anh T đi Hàn Quốc lao động, thời gian đầu anh có liên lạc về cho gia đình nhưng từ năm 2016 trở về đây anh rất ít liên lạc về nhà và không quan tâm đến gia đình vợ con. Thời gian vợ chồng sống ly thân đã lâu, vợ chồng không có sự quan tâm, chia sẻ, gắn bó. Chị X xác định tình cảm vợ chồng không còn và có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chấp hành chưa đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt HĐXX): Áp dụng Điều 51, 56; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đặng Thị X được ly hôn anh Vũ Đình T. Về con chung: Giao con chung Vũ Hải L cho chị X trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các con thành niên. Chấp nhận sự tự nguyện của chị X không yêu cầu anh Tiếp phải cấp dưỡng cho con. Chị X phải chịu án phí dân sư sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Đặng Thị X hiện đang sinh sống ở Việt Nam, bị đơn Vũ Đình T có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở thôn Đ, xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Hàn Quốc. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị X không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh T ở nước ngoài. Tòa án đã nhiều lần yêu cầu gia đình anh Tiếp cung cấp địa chỉ nhưng gia đình cũng không cung cấp được. Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Mẹ đẻ anh T là bà Hoàng Thị L vẫn thường xuyên liên lạc với anh T. Bà L đã nhận các văn bản tố tụng và cam đoan thông báo cho anh Tiếp biết việc Tòa án giải quyết ly hôn giữa chị Xuân với anh T. Tuy nhiên anh T vắng mặt lần thứ hai và có quan điểm đề nghị giải quyết vắng mặt, chị X có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị X và anh Vũ Đình T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương ngày 21/11/2011, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống với nhau thời gian ngắn thì anh Tiếp đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc, thời gian đầu anh T có liên lạc về cho gia đình. Trong thời gian lao động tại Hàn Quốc anh có về phép được khoảng một tháng sau đó lại tiếp tục đi lao động ở Hàn Quốc. Từ tháng 6/2016 cho đến nay anh T không liên lạc về nhà, không quan tâm đến gia đình vợ con. Chị X xác định vợ chồng sống xa nhau quá lâu, không có sự quan tâm, chia sẻ, và không tìm được tiếng nói chung, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị có đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Anh T ở nước ngoài nhưng qua gia đình cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên có quan điểm đồng ý ly hôn. Chính quyền địa phương và gia đình anh Tiếp cũng xác định giữa chị X, anh T đã xảy ra mâu thuẫn, không có sự chia sẻ, quan tâm tới nhau. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị X, anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị X ly hôn anh T là phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị Đặng Thị X và anh Vũ Đình T có 01 con chung là Vũ Hải L, sinh ngày 04/8/2012, hiện đang ở với chị X. Xét thấy con chung của anh, chị hiện vẫn còn nhỏ và đang ở với chị X, con chung cũng có nguyện vọng được ở với chị X. Mặt khác anh T đang ở nước ngoài, không có mặt ở Việt Nam nên không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con. HĐXX chấp nhận giao con chung Vũ Hải L cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Xuân không yêu cầu anh Tiếp phải cấp dưỡng cho con. Nếu như có căn cứ cho rằng chị X nuôi con không đảm bảo, ảnh hưởng đến quyền lợi của con chung thì anh Tiếp có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản, nợ chung: Không có, các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết phân chia tài sản chung sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật (nếu có).

[3] Về án phí: Chị Đặng Thị X là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đặng Thị X ly hôn anh Vũ Đình T.

2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho chị Đặng Thị X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Vũ Hải L, sinh ngày 04/8/2012 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Đặng Thị X không yêu cầu anh Vũ Đình T phải cấp dưỡng cho con.

Không ai được cản trở anh Vũ Đình T thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Đặng Thị X phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình), được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0002821 ngày 15 tháng 10 năm 2020 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Đặng Thị X được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Vũ Đình T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về