Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 11/05/2021 về tranh chấp kiện xin ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2021 VỀ TRANH CHẤP KIỆN XIN LY HÔN, NUÔI CON CHUNG 

Ngày 11 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 225/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020 về việc “Kiện xin ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28/4/2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Trần Thị Minh Ng, sinh năm 1996.

Địa chỉ: Đội 4, Ô , xã T, huyện B, tỉnh Hà Nam.

* Bị đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Tổ 5, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam.

Tại phiên toà có mặt chị Ng, anh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, biên bản tự khai nguyên đơn chị Trần Thị Minh Ng trình bày:

- Về hôn nhân: Chị Trần Thị Minh Ng và anh Trần Văn H kết hôn vào ngày 13/8/2018 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Kết hôn là hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống trong công việc, trong cách ứng xử cũng như sinh hoạt hàng ngày. Hơn nữa, chị Ng cho rằng do chị không đáp ứng được những đòi hỏi về sinh lý từ anh H nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Nhiều khi trong những lúc nóng giận anh H còn chửi, đánh chị Ng. Do cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên từ giữa năm 2020 chị Ng đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chống sống ly thân. Trong thời gian sống ly thân không chị và anh H không liên lạc, không quan tâm đến nhau nữa. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị Ng đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháuTrần Minh Kh, sinh ngày 30/12/2018. Khi vợ chồng ly hôn chị Ng có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Kh và yêu cầu anh H đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị là 2.000.000đ/tháng từ khi vợ chồng ly hôn cho đến khi cháu Kh đủ 18 tuổi trưởng thành tự lập được.

* Phần trình này của bị đơn anh Trần Văn H:

- Về hôn nhân: Về ngày, tháng, địa điểm, điều kiện kết hôn anh H công nhận lời khai của chị Ng là đúng.

Về cuộc sống hôn nhân: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng với mẹ anh H, gia đình hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì lớn. Đến khoảng tháng 7/2020 do không thống nhất được quan điểm đối với công việc của chị Ng nên vợ chồng đã xảy ra cãi vã to tiếng, trong lúc nóng giận chị Ng đã có những lời lẽ và cư xử không đúng chuẩn mực đạo đức của người vợ, anh H cũng chửi, mắng và xúc phạm vợ nặng nề. Sau đó chị Ng đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở. Anh H đã xuống nhà chị Ng xin lỗi chị Ng và gia đình chị Ng rất nhiều lần nhưng chị Ng không tha thứ. Nay chị Ng đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn anh H nhận thấy vẫn còn tình cảm dành cho chị Ng và không muốn con bị thiệt thòi vì thiếu thốn tình cảm nên anh H không đồng ý ly hôn, anh H mong muốn vợ chồng đoàn tụ cùng nhau nuôi dậy con chung.

Về con chung: Anh H và chị Ng có 01 con chung như chị Ng khai là đúng. Nếu vợ chồng ly hôn anh H có nguyện vọng được nuôi dưỡng và chăm sóc con chung và không yêu cầu chị Ng đóng góp tiền nuôi con chung cho anh. Trong trường hợp Tòa án giao con cho chị Ng chăm sóc, nuôi dưỡng anh H sẽ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con là 1.500.000/tháng kể từ khi ly hôn đến khi cháu Kh đủ 18 tuổi trưởng thành tự lập được.

Về con riêng, con nuôi, tài sản, công nợ chung của vợ chồng: Chị Ng, anh H xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà sơ thẩm hôm nay:

Chị Ng vẫn đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H. Về phần con chung chị Ng xin được nuôi con chung và yêu cầu anh H đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung là 1.500.000đ/tháng.

Anh H xác định tình cảm anh dành cho chị Ng vẫn còn vì vậy anh không đồng ý ly hôn. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn anh H xin được nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Trần Minh Kh và không yêu cầu chị Ng đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Trong trường hợp Tòa án giao con cho chị Ng chăm sóc, nuôi dưỡng anh H sẽ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con là 1.500.000/tháng kể từ khi ly hôn đến khi cháu Kh đủ 18 tuổi trưởng thành tự lập được.

Về con riêng, con nuôi, tài sản, công nợ chung của vợ chồng: Chị Ng, anh H xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án dân sự:

- Việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX), thư ký:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại các Điều 28; 35; 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Xác định đúng quan hệ tranh chấp, thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách của người tham gia tố tụng, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định của pháp luật, tuân thủ đúng thời hạn chuẩn bị xét xử, việc gửi các quyết định cho Viện Kiểm sát đúng quy định. Việc tuân theo pháp luật của HĐXX, thư ký: Tại phiên tòa HĐXX, thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình đúng theo quy định tại Điều 70, 71, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng: Điều 28; 35; 39; 68; 144; 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 51; 54; 56; 81; 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015 của Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/NQ - QH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa Trần Thị Minh Ng và anh Trần Văn H.

Về con chung: Giao chị Trần Thị Minh Ng trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc con chung của vợ chồng là cháu Trần Minh Kh (con trai), sinh ngày 30/12/2018. Anh H có trách nhiệm đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Ng là 1.500.000đ/tháng cho đến khi cháu Kh đủ 18 tuổi trưởng thành tự lập được.

Về án phí ly hôn: Chị Ng phải nộp theo quy định pháp luật.

Án phí cấp dưỡng nuôi con chung: Anh H phải nộp theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi thảo luận và nghị án, HĐXX nhận định.

[1] Về tố tụng: Vụ án: “Kiện xin ly hôn, nuôi con chung” giữa chị Trần Thị Minh Ng và anh Trần Văn H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

[2] Về nội dung: Cuộc hôn nhân giữa chị Ng và anh H là hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam ngày 13 tháng 8 năm 2018 đảm bảo trình tự, thủ tục kết hôn được Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 bảo vệ.

[3] Về hôn nhân: Cuộc hôn nhân giữa chị Ng và anh H được xây dựng trên cơ sở tự nguyện nhưng khi chung sống với nhau một thời gian thì xảy ra nhiều mâu thuẫn khiến cuộc hôn nhân không được hạnh phúc. Nguyên nhân là do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống về mọi mặt đặc biệt là trong quan hệ tình cảm vợ chồng. Cuộc sống vợ chồng trở nên căng thẳng và áp lực đối với chị Ng. Do vậy chị Ng đã chủ động sống ly thân và không muốn liên quan gì đến anh H nữa. Mặc dù anh H cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn nhưng anh cũng không chấp nhận cách sống và cách cư xử của chị Ng trong cuộc sống hàng ngày vì thế đã có những lời lẽ xúc phạm, thậm chí đánh vợ cho thấy anh cũng chưa coi trọng hạnh phúc gia đình. Việc anh H khai đã nhận ra lỗi lầm và nhiều lần xin lỗi mong chị Ng tha thứ nhưng chị Ng không chấp nhận chứng tỏ chị Ng không còn tình cảm với anh H và không muốn kéo dài cuộc hôn nhân nữa. Vì hôn nhân không thể tồn tại khi tình cảm chỉ xuất phát từ một phía do đó HĐXX xét thấy không thể kéo dài tình trạng hôn nhân giữa chị Ng và anh H vì mục đích hôn nhân không đạt được. HĐXX áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử ly hôn giữa chị Trần Thị Minh Ng và anh Trần Văn H.

[4] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung duy nhất là cháu Trần Minh Kh (con trai), sinh ngày 30/12/2018, khi ly hôn cả chị Ng và anh H đều có nguyện vọng được nuôi dưỡng và chăm sóc con chung. Tuy nhiên, đến ngày Tòa án xét xử cháu Trần Minh Kh mới được hơn 28 tháng tuổi (dưới 36 tháng tuổi). Chị Ng đã nộp cho Tòa các tài liệu chứng minh nguồn thu nhập hàng tháng đủ để chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Kh. Vì vậy để đảm bảo lợi ích của cháu Kh, cần giao cho chị Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Minh Kh là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Vì vậy yêu cầu xin được nuôi con chung của anh H không được Tòa án chấp nhận. Anh H có trách nhiệm đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Ng là 1.500.000đ/tháng kể từ tháng 6/2021 cho đến khi cháu Kh đủ 18 tuổi trưởng thành tự lập được.

[5] Về con riêng, con nuôi, tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí:

Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Ng phải nộp theo quy định pháp luật.

Án phí cấp dưỡng nuôi con chung: Anh H phải nộp theo quy định pháp luật.

[7] Quyền kháng cáo: Các đương sự thực hiện theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 68;Điều 143; 144; khoản 4 Điều 147; 227; 228; 271; 273 và 280 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào các Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về lệ phí, án phí Tòa án.

1/ Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Minh Ng và anh Trần Văn H.

2/ Về con chung: Giao chị Trần Thị Minh Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung là cháu Trần Minh Kh (con trai), sinh ngày 30/12/2018. Anh H có trách nhiệm đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung là 1.500.000đ/tháng kể từ tháng 6/2021 cho đến khi cháu Kh đủ 18 tuổi, trưởng thành tự lập được. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3/ Án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị Minh Ng phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Chị Ng được đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2015/0004702 ngày 21/12/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý. Chị Ng đã nộp đủ án phí.

Anh Trần Văn H phải đóng 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm Trần Thị Minh Ng và anh Trần Văn H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6; 7; 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 11/05/2021 về tranh chấp kiện xin ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về