Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 680/2020/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2020 về việc “tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 548/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 542/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1986; nơi cư trú: ấp AT, xã AN, huyện CM, tỉnh An Giang; có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1981; nơi cư trú: ấp AT, xã AN, huyện CM, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/08/2020, tờ tự khai và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị V trình bày, giữa bà với ông T sau khi kết hôn, có thời gian đầu chung sống hạnh phúc, nhưng kể từ cuối năm 2015, ông T thường xuyên tụ tập bạn bè, nhậu say xỉn lại thường kiếm chuyện chửi mắng; bà V cũng đã nhiều lần khuyên nhủ chồng, nhưng mỗi lần ông T say xỉn lại gây chuyện, đập phá nhà cửa, còn hay đánh bài, cờ bạc, nhiều lần đánh đập bà, đỉnh điểm vào ngày 20/06/2020, ông T hăm dọa, đánh bà, nên bà đã chuyển hẳn về cha, mẹ đẻ sống đến nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn, nên bà V đề nghị được ly hôn. Trong quá trình chung sống, giữa bà với ông T có 01 con chung tên Nguyễn Thị Thùy Tr, sinh ngày 05/01/2007, khi ly hôn bà V yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung không có nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản ghi nhận lời khai, biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Ngọc T trình bày, giữa ông và bà V là do tự quen biết, đi đến kết hôn năm 2008, có thực hiện việc đăng ký kết hôn tại xã AT, huyện CM, tỉnh An Giang, từ năm 2015 mâu thuẫn hai vợ chồng hay cự cãi do tiền bạc, nguyên nhân là do ông hay tụ tập bạn bè nhậu say xỉn, ông T thừa nhận có việc chơi đánh bài, tài xỉu, nhưng gần 01 năm nay không chơi bài; đến nay ông đã có thay đổi và mong muốn hai vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau. Bà V đề nghị ly hôn ông không đồng ý ly hôn, do còn thương vợ, thương con và ông hứa sẽ thay đổi để xây dựng hạnh phúc gia đình. Quá trình chung sống giữa ông với bà V có 01 con chung tên Nguyễn Thị Thùy Tr, sinh ngày 05/01/2007, khi ly hôn bà V có yêu cầu nuôi con, mặc dù con ông có ý kiến ở với mẹ, nhưng do ông không muốn ly hôn nên chỉ mong con chung sống với cha mẹ, nếu có ly hôn ông T đề nghị được nuôi con. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

- Bà V trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và xác định không có tài liệu, chứng cứ khác giao nộp cho Tòa án chứng minh cho ý kiến, yêu cầu của mình.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa ông T vắng mặt lần thứ 2, Tòa án đã triệu tập hợp lệ, nhưng ông T vẫn vắng mặt, nên căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông T là đúng quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Giữa bà Nguyễn Thị V và ông Nguyễn Ngọc T kết hôn vào năm 2006, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AT, huyện CM ngày 03/12/2008. Vợ chồng chung sống với nhau đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm về tài chính, ông T thường không quan tâm gia đình, uống rượu, cờ bạc; cả hai đã tự sống ly thân từ tháng 06/2020 đến nay, nên bà V yêu cầu ly hôn, ông T không đồng ý ly hôn.

Xét thấy trong thời gian ly thân cả hai không tạo điều kiện để hàn gắn hạnh phúc, bà V khẳng định không còn tình cảm, nếu như tiếp tục chung sống không đem lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nên mâu thuẫn sẽ trở nên trầm trọng hơn. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của bà V là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, nghĩ nên chấp nhận.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Thị Thùy Tr, sinh ngày 05/01/2007, bà V có yêu cầu nuôi con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con, từ khi ly thân đến nay cháu Tr sống với bà V phát triển bình thường, cháu cũng có nguyện vọng sống với bà Tr, nên để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu nên để bà V tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, ông T không phải cấp dưỡng, do bà V không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không đề cập đến.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Bà Nguyễn Thị V khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Ngọc T, cả bà và ông T đều cư trú trên địa bàn huyện CM. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Nguyễn Ngọc T đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị V, ông Nguyễn Ngọc T đều thống nhất, cả hai sau thời gian quen biết, nên đã tiến tới hôn nhân, có thực hiện việc đăng ký kết hôn ngày 03/12/2008 tại Ủy ban nhân dân xã AT, huyện CM, tỉnh An Giang. Bà V, ông T đều đủ diều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 9, 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (nay là Điều 8, 10 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014).

Trong giai đoan chuẩn bị xét xử, cũng như tại phiên tòa, bà V khẳng định không còn tình cảm với ông T, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ việc ông T hay say xỉn, lại cờ bạc, nên từ năm 2015 đến nay gia đình thường xuyên có những mâu thuẫn bất đồng, từ tháng 06/2020 đến nay hai vợ chồng không còn chung sống với nhau; mặc dù ông T không đồng ý ly hôn, với lý do còn thương vợ, thương con. Tuy nhiên, tại phiên tòa bà V vẫn giữ yêu cầu, không đồng ý việc hàn gắn tình cảm, do thời gian chung sống ông T đã gây nên nhiều tổn thương về mặt tình cảm, cũng như tâm lý của bà. Ngoài ra, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, ông T cũng thống nhất về nguyên nhân mâu thuẫn đúng là từ năm 2015 đến nay ông T hay say xỉn, đánh tài xỉu làm ảnh hưởng tới kinh tế gia đình, vợ chồng cũng thường xuyên bất hòa.

Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa bà V và ông T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, việc bà V yêu cầu ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà V.

[2.2] Về quan hệ con chung: Bà V và ông T đều xác định trong thời gian chung sống giữa ông, bà chỉ có 01 con chung là Nguyễn Thị Thùy Tr, sinh ngày 05/01/2007. Xét thấy, hiện nay cháu Tr đang được bà V chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển ổn định; mặc dù ông T có yêu cầu nuôi con, nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Tòa án đã tiến hành ghi nhận ý kiến của cháu Tr, cháu có nguyện vọng được sống với bà V trong trường hợp bà V, ông T ly hôn. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu Tr, giúp cháu Tr phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử giao cháu Tr cho bà V tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà V không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà V, ông T đều xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị V phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông Nguyễn Ngọc T không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 53, các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị V;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị V được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc T. Giấy chứng nhận kết hôn số 388 ngày 03/12/2008 do Ủy ban nhân dân xã AT, huyện CM, tỉnh An Giang cấp, không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị V được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thị Thùy Tr, sinh ngày 05/01/2007. Ông Nguyễn Ngọc T không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Bà Nguyễn Thị V cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Nguyễn Ngọc T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đề cập giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị V phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300 000 ba trăm nghìn đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300 000 ba trăm nghìn đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2017/0008928 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 08 tháng 10 năm 2020; bà Nguyễn Thị V đã nộp đủ án phí.

Ông Nguyễn Ngọc T không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

5. Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bà Nguyễn Thị V có mặt, có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc T là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự /.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về