Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa bà T và ông T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA BÀ T VÀ ÔNG T

Ngày 03 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 312/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Như T, sinh năm 1997 (có mặt);

Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Ông Huỳnh Công T, sinh năm 1996 (có mặt);

Địa chỉ: Ấp 2, xã P, huyện C, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11 tháng 11 năm 2020 và quá trình xét xử, nguyên đơn bà Đặng Thị Như T trình bày:

Bà và ông Huỳnh Công T tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn với nhau vào năm 2017 tại Ủy ban nhân dân xã Phước Tân H, huyện C, tỉnh Long An, thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, ông T không chung thủy, có người phụ nữ khác là người yêu cũ của ông T, thường xuyên gọi điện thoại, nhắn tin với nhau, bị bà phát hiện thì ông T hứa thay đổi và chấm dứt quan hệ tình cảm với người phụ nữ đó nhưng ông T không thay đổi. Ông T xác định với người phụ nữ đó là giữa bà và ông T đã ly hôn được hai năm. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc, không thể kéo dài hôn nhân nên bà T yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Công T.

Trong quá trình chung sống giữa bà T và ông T có một người con chung tên là Huỳnh Đặng Anh K, sinh ngày 13 tháng 12 năm 2017, hiện con do bà T đang nuôi dưỡng. Bà yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng người con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay, bà làm công nhân thu nhập bình quân mỗi tháng khoảng 7.000.000đ (bảy triệu đồng).

Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình chung sống bà và ông T không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Huỳnh Công T trình bày:

Ông và bà Đặng Thị Như T chung sống và đăng ký kết hôn với nhau vào năm 2017 tại Ủy ban nhân dân xã Phước Tân H, huyện Châu Thành, tỉnh Long An, ông chỉ có nhắn tin với người phụ nữ khác, ngoài ra không có mâu thuẫn gì khác. Ông không đồng ý ly hôn với bà Đặng Thị Như T vì còn thương vợ con.

Về con chung: Hôn nhân giữa ông và bà Đặng Thị Như T có một người con chung có tên là Huỳnh Đặng Anh K, sinh ngày 13 tháng 12 năm 2017, hiện con do bà T đang nuôi dưỡng. Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T thì ông đồng ý giao con chung cho bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng nhưng tại phiên tòa ông T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay ông làm nghề tài xế thu nhập bình quân mỗi tháng khoảng 12.000.000đ (mười hai triệu đồng).

Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình chung sống ông và bà T không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nguyên đơn bà Đặng Thị Như T trình bày.

Bà giữ nguyên yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Công T. Bà không đồng ý giao con cho ông T nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện của bà Đặng Thị Như T và nơi cư trú của ông Huỳnh Công T, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý và giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Bà Đặng Thị Như T và ông Huỳnh Công T đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phước Tân H, huyện Châu Thành, tỉnh Long An vào năm 2017 nên quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Tòa án đã tiến hành hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng giữa bà Đặng Thị Như T và ông Huỳnh Công T nhưng không thành. Ông T cho rằng ông còn thương vợ con, muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà T nhưng ông T không đưa ra biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà T. Bà T xác định bà không còn tình cảm với ông T, bà T giữ nguyên nguyện vọng yêu cầu ly hôn với ông T. Từ đó, cho thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông T đã trầm trọng không thể hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc bà T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông T là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Hôn nhân giữa bà T và ông T có một người con chung có tên là Huỳnh Đặng Anh K, sinh ngày 13 tháng 12 năm 2017, bà T, ông T cùng yêu cầu được quyền trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục người con chung. Xét thấy người con chung đang sống cùng với bà T nên đã ổn định về mặt tình cảm và tâm lý. Mặt khác, ông T cho rằng ông có điều kiện tốt hơn bà T để được quyền trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục người con chung nhưng ông T không đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh nên không đủ căn cứ xem xét chấp nhận yêu cầu của ông T. Do đó, giao cho bà T được quyền trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục người con chung có tên là Huỳnh Đặng Anh K, sinh ngày 13 tháng 12 năm 2017. Bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Ông T có quyền, nghĩa vụ thăm nom người con chung có tên là Huỳnh Đặng Anh K; Vì lợi ích của người con chung, bà T, ông T có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con; bà T, ông T có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định chung của pháp luật.

[4] Về nợ chung và tài sản chung: Bà T, ông T cùng xác định không yêu cầu giải quyết về nợ chung và tài sản chung.

[5] Về án phí: Bà Đặng Thị Như T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm với số tiền là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), bà T đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) được đối trừ án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 56 và Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu của bà Đặng Thị Như T về việc xin ly hôn với ông Huỳnh Công T.

Bà Đặng Thị Như T được ly hôn với ông Huỳnh Công T.

Về con chung: Bà Đặng Thị Như T được quyền trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục người con chung có tên là Huỳnh Đặng Anh K, sinh ngày 13 tháng 12 năm 2017, hiện con do bà T đang nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Huỳnh Công T có quyền, nghĩa vụ thăm nom người con chung có tên là Huỳnh Đặng Anh K, sinh ngày 13 tháng 12 năm 2017, bà T cùng các thành viên của gia đình không ai được cản trở. Ông T thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom con phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp ông Huỳnh Công T lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà Đặng Thị Như T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Huỳnh Công T.

Vì lợi ích của các người con chung, khi có căn cứ thì bà T, ông T hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con; khi có lý do chính đáng thì bà T, ông T có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Về án phí: Bà Đặng Thị Như T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm với số tiền là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), bà T đã nộp tiền tạm ứng án phí với số tiền là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0000745 ngày 23 tháng 11 năm 2020 của cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành tỉnh Long An được đối trừ án phí sơ thẩm.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa bà T và ông T

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về