Bản án 08/2021/DS-ST ngày 12/08/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 08/2021/DS-ST NGÀY 12/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2021/TLST-DS ngày 27 tháng 01 năm 2021, về việc tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2021/QĐXXST-DS ngày 13/7/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2021/QĐST-DS ngày 02/8/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1/ Ông La Xuân H, sinh năm 1965 (có mặt)

2/ Bà Phạm Thị Chí, sinh năm 1967 (có mặt)

 

Cùng địa chỉ: Thôn Lương Bắc, thị trấn Lương Sơn, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

-Bị đơn:

1/ Anh Lê Minh Th, sinh năm 1984 (vắng mặt)

2/ Chị Phạm Thị Diễm D, sinh năm 1987 (có mặt)

Cùng địa chỉ: Khu phố Lương Tây, thị trấn Lương Sơn, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn – Ông La Xuân H và bà Phạm Thị Chí trình bày:

Vào năm 2018, vợ chồng anh Lê Minh Th và chị Phạm Thị Diễm D có mua hàng nông sản của vợ chồng ông Hải và bà Chín cụ thể:

Ngày 10/01/2018 mua khoai mì tươi số lượng 8.375 kg có giá 1.550 đồng/kg với tổng sống tiền là 12.981.250 đồng;

Ngày 10/01/2018 mua khoai mì tươi số lượng 8.434 kg có giá 1.550 đồng/kg với tổng sống tiền là 13.072.700 đồng;

Ngày 11/01/2018 mua khoai mì tươi số lượng 4.596 kg có giá 1.550 đồng/kg với tổng sống tiền là 7.123.800 đồng;

Ngày 12/01/2018 mua khoai mì tươi số lượng 5.899 kg có giá 1.550 đồng/kg với tổng sống tiền là 9.143.450 đồng.

Như vậy tổng số tiền mà vợ chồng anh Lê Minh Th và chị Phạm Thị Diễm D nợ tiền mua khoai mì của vợ chồng ông Hải và bà Chín là 42.321.200 đồng.

Sau khi mua hàng xong thì anh Thương và chị Dung đã thanh toán cho vợ chồng ông bà được 15.000.000 đồng, còn lại 27.321.200 đồng từ đó đến nay vẫn chưa thanh toán cho vợ chồng ông Hải và bà Chín. Nay ông Hải và bà Chín yêu cầu anh Lê Minh Th và chị Phạm Thị Diễm D phải thoanh toán số tiền còn nợ là 27.321.200 đồng và không yêu cầu tính lãi từ đó đến nay cũng như trong giai đoạn thi hành án.

Bị đơn – Chị Phạm Thị Diễm D trình bày: Từ năm 2016 đến năm 2017 chị có mua nông sản của vợ chồng ông La Xuân H và bà Phạm Thị Chí và có nợ một số tiền hơn 50.000.000 đồng, chị có thanh toán dần đến năm 2018 thì còn nợ lại số tiền 27.321.200 đồng. Việc mua bán này thì lợi nhuận thu được chị dùng vào việc chi tiêu trong gia đình và nuôi con, giữa chị và anh Thương mỗi người tự làm kinh tế riêng nên nợ này chị có trách nhiệm một mình với ông La Xuân H và bà Phạm Thị Chí. Nay, ông La Xuân H và bà Phạm Thị Chí yêu cầu vợ chồng chị thanh toán số tiền này thì chị hoàn toàn đồng ý, nhưng ý kiến của anh Thương như thế nào thì chị không biết.

Tại bản tự khai và biên bản lấy lời khai, anh Lê Minh Th trình bày:

Anh hoàn toàn biết việc kinh doanh của vợ là chị Phạm Thị Diễm D và biết chị Dung có làm ăn mua bán với vợ chồng ông Hải, bà Chín nhưng không biết rõ biết rõ lợi nhuận và việc chị Dung sử dụng tiền thu nhập được vào việc gì. Đồng thời anh Thương cũng xác định anh làm nghề lái xe và thu nhập của anh chỉ phục vụ cho nhu cầu của anh chứ không phụ giúp chị Dung trong việc chăm lo cho các con của anh và việc trang trải cuộc sống gia đình. Anh Thương khẳng định đây là nợ riêng của vợ anh với vợ chồng ông Hải, bà Chín nên anh không chịu trách nhiệm trả khoản nợ này.

*Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt và có đơn đề ngị xét xử vắng mặt, Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

Đồng thời đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 116, Điều 430, khoản 3 Điều 440 Bộ luật dân sự; Điều 27, Điều 30, Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền 27.321.200 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xét yêu cầu và ý kiến của các bên đương sự; ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền mua nông sản là 27.321.200 đồng, nên được xác định là tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản” được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn có đơn khởi kiện đối với bị đơn, bị đơn có nơi cư trú tại khu phố Lương Tây, thị trấn Lương Sơn, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa, bị đơn anh Lê Minh Th đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định.

[2]. Về nội dung:

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Từ năm 2016 đến năm 2017 chị Phạm Thị Diễm D là vợ của anh Lê Minh Th có mua nông sản là khoai mì của vợ chồng ông La Xuân H và bà Phạm Thị Chí và có nợ một số tiền nhưng đã thanh toán dần đến năm 2018 thì còn nợ lại số tiền 27.321.200 đồng. Tuy, việc mua bán không được thể hiện dưới dạng hợp đồng bằng văn bản, nhưng được các bên đương sự thừa nhận nên theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự thì phía nguyên đơn không cần phải chứng minh.

Trong vụ án này, anh Lê Minh Th cho rằng việc mua bán chỉ có vợ của anh là chị Phạm Thị Diễm D trực tiếp tham gia giao dịch với vợ chồng ông La Xuân H và bà Phạm Thị Chí anh không liên quan, nhưng anh cũng thừa nhận biết việc mua bán này và cũng xác định anh không có đóng góp gì cho chị Dung để nuôi con, thu nhập của anh có được thì anh tự sử dụng cho nhu cầu của anh. Chị Phạm Thị Diễm D khẳng định lợi nhuận thu được từ việc mua bán này chị Dung sử dụng vào mục đích chi tiêu cho gia đình và nuôi con, đồng thời chị Dung cũng đề nghị tự chịu trách nhiệm về khoản nợ này đối với nguyên đơn, nhưng nguyên đơn không chấp nhận. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 27, khoản 1 Điều 30 và khoản 2 Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng phải có trách nhiệm liên đới với nhau trong việc thực hiện các giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho gia đình. Xét thấy, việc mua bán và thu nhập từ việc mua bán của chị Dung nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu cần thiết của gia đình và chi phí cho việc chăm sóc các con. Đây được xem là nhu cầu thiết yếu và cần thiết cho gia đình, anh Thương cho rằng việc này là việc riêng của chị Dung và buộc chị Dung tự chịu trách nhiệm riêng đối với khoản nợ này là không có cơ sơ nên không được chấp nhận. Do đó, anh Lê Minh Th và chị Phạm Thị Diễm D phải chịu trách nhiệm liên đới đối với khoản nợ 27.321.200 đồng này.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là hoàn toàn có căn cứ nên được chấp nhận.

Đối với tiền lãi: Do nguyên đơn không yêu cầu tính lãi trong thời gian bị đơn chậm thực hiện nghĩa vụ và cũng không yêu cầu tính lãi trong giai đoạn thi hành án nên HĐXX không xét.

[3]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 430, khoản 3 Điều 440 Bộ luật dân sự; Điều 27, Điều 30, Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1/ Buộc anh Lê Minh Th và chị Phạm Thị Diễm D phải thanh toán cho ông La Xuân H và bà Phạm Thị Chí số tiền 27.321.200 (Hai mươi bảy triệu ba trăm hai mươi mốt nghìn hai trăm) đồng.

2/ Về tiền lãi: Ông La Xuân H và bà Phạm Thị Chí không yêu cầu giải quyết.

3/ Về án phí: Anh Lê Minh Th và chị Phạm Thị Diễm D phải chịu 1.366.060 (Một triệu ba trăm sáu mươi sáu nghìn không trăm sáu mươi) đồng án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả lại cho ông La Xuân H và bà Phạm Thị Chí số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 683.000 (Sáu trăm tám mươi ba nghìn) đồng theo biên lai thu số 0001575 ngày 26/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (12/8/2021); Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/DS-ST ngày 12/08/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:08/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về