Bản án 08/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TU, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 08/2020/HS-ST NGÀY 14/01/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã TU xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2020/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Bá Thành Tr, sinh năm 1996, tại Bình Thuận, giới tính: Nam. Nơi đăng ký HKTT: Thôn G, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; tạm trú: Tổ 1, khu phố K, phường P, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 12/12; con ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị Quỳnh B, sinh năm 1976; bị cáo có 03 L, em người lớn là bị cáo, người nhỏ sinh năm 2008; tiền sự, tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/9/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

Ông Võ Văn C, sinh năm 2000; vắng mặt.

Ông Liêu Trúc D, sinh năm 1994; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Cên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ ngày 27/9/2019, lực lượng công an phường P tuần tra, phát hiện Võ Văn C từ phòng trọ thuộc khu phố K, phường P, thị xã TU, tỉnh Bình Dương đi ra có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu C đứng lại để kiểm tra, C khai nhận vừa sử dụng ma túy tại phòng trọ của Nguyễn Bá Thành Tr.

Công an phường P kiểm tra phòng trọ của Tr phát hiện 04 gói nylon hàn kín và 01 bịch nylon miệng kéo dính chứa chất tinh thể màu trắng để trong 01 hộp nhựa màu xL. Tr khai nhận: Toàn bộ chất tinh thể màu trắng là ma túy đá Tr mua của đối tượng tên L (không rõ nhân thân) với số tiền 1.500.000 đồng để sử dụng và bán lại cho những đối tượng sử dụng ma túy. Công an phường P lập biên bản niêm phong ma túy, biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ đồ vật, tài sản có liên quan gồm: 01 bịch ny lon miệng kéo dính chứa chất tinh thể màu trắng, 04 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 01 hộp nhựa màu xL Dương, 01 xe mô tô biển số 53V6 – 1803, một điện thoại di động màu vàng trên màn hình có ghi chữ Vertu, một giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Bá Thành Tr.

Tại Bản kết luận giám định số 725/MT – PC09 ngày 02/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận:

+ 01 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng thu giữ là chất ma túy (M1), loại Methamphetamine, có khối lượng 0,5648 gam.

+ 01 bịch nylon miệng kéo dính chứa chất tinh thể màu trắng thu giữ là chất ma túy (M2), loại Methamphetamine, có trọng lượng 1,0375 gam Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Bá Thành Tr khai nhận: Tr và Võ Văn C đều sử dụng loại ma túy đá (Methamphetamine).

Khoảng 20 giờ ngày 25/9/2019, Tr nảy sinh ý định đi mua ma túy về để bán lại cho các đối tượng nghiện ma túy, kiếm lời. Thông qua một người bạn (không rõ tên) Tr biết đối tượng tên L (không rõ nhân thân) có bán ma túy, Tr gọi điện thoại cho L hỏi mua 1.500.000 đồng ma túy. L chỉ dẫn Tr đi đến thùng rác bên lề đường, gần cửa hàng mua bán xe máy Bình Minh thuộc phường V, thị xã S, tỉnh Bình Dương lấy ma túy L để trong gói thuốc Jet màu trắng dưới đất gần thùng rác rồi bỏ số tiền 1.500.000 đồng vào trong gói thuốc Jet và để lại vị trí cũ. Tr điều khiển xe mô tô biển số 53V6 – 1803 đi từ phòng trọ đến vị trí L chỉ dẫn, khi đến nơi Tr thấy có 01 gói thuốc Jet cách thùng rác khoảng 0,5 mét, Tr mở gói thuốc Jet thấy bên trong có 01 bịch nylon miệng kéo dính, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng thì giấu vào trong người và số tiền 1.500.000 đồng vào gói thuốc Jet rồi để lại vị trí cũ. Tr về phòng trọ chia gói ma túy thành 04 gói nylon hàn kín và 01 bịch nylon miệng kéo dính rồi lấy một ít ma túy để sử dụng.

Khoảng 11 giờ ngày 27/9/2019, C nhắn tin cho Tr hỏi mua thiếu 200.000 đồng ma túy, Tr đồng ý. Khi C đến, Tr đã để sẵn ma túy ở trong bộ dụng cụ sử dụng ma túy, Tr nói với C số ma túy này giá 200.000 đồng. C sử dụng ma túy xong, ra khỏi phòng trọ để về nhà thì bị công an kiểm tra phát hiện, C khai vừa sử dụng ma túy tại phòng trọ của Tr nên Công an phường P kiểm tra và thu giữ số ma túy còn lại sau khi Tr sử dụng và bán cho C sử dụng.

Tr bán ma túy cho C lần đầu tiên nhằm mục đích kiếm lời, ngoài ra Tr chưa bán ma túy cho ai khác.

Quá trình điều tra, người làm chứng Võ Văn C khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 27/9/2019 C nhắn tin cho Tr hỏi mua thiếu 200.000 đồng ma túy. C đến phòng trọ của Tr sử dụng ma túy xong, khi ra khỏi phòng trọ khoảng 05 mét để về nhà thì lực lượng công an phường P đang tuần tra, phát hiện C sử dụng ma túy.

Cáo trạng số 14/CT-VKS.TU ngày 31/12/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Bá Thành Tr về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Bá Thành Tr mức hình phạt từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 01 hộp nhựa màu xanh dương;

Sung quỹ nhà nước 01 xe mô tô biển số 53V6 – 1803, một điện thoại di động màu vàng trên màn hình có ghi chữ Vertu;

Trả lại bị cáo giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Bá Thành Tr.

Đối với Võ Văn C, số ma túy C mua của Tr đã sử dụng hết, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã TU không xác định được khối lượng ma túy C sử dụng là bao nhiêu nên không đề nghị xử lý.

Đối với đối tượng tên L có hành vi bán ma túy cho Tr, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã TU chưa xác định được nhân thân lai lịch đối tượng này nên sẽ tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không có ý kiến tranh luận.

Trong phần trình bày lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã TU, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Bá Thành Tr khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TU đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, bản kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 27/9/2019, tại khu phố K, phường P, thị xã TU, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Bá Thành Tr có hành vi bán ma túy cho Võ Văn C. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU truy tố bị cáo về tội dL và khung hình phạt như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý về ma túy của Nhà nước. Bị cáo đủ nhận thức để biết ma túy là chất gây nghiện mà Nhà nước cấm mua bán, sử dụng. Bị cáo cũng biết ma túy là tệ nạn xã hội nguy hiểm, góp phần làm băng hoại đạo đức, lối sống, là mầm mống gây ra các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý lén lút mua ma túy về bán cho người nghiện ma túy để thu lợi. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên chấp nhận.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi mua bán ma túy nhằm thu lời bất chính, tuy nhiên bị cáo không có việc làm, không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Đối với 01 bì thư được niêm phong bên trong có chứa ma túy còn lại sau khi giám định là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 hộp nhựa màu xL dương không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe mô tô biển số 53V6 – 1803 kết quả tra cứu tại Phòng cảnh sát giao thông công an tỉnh Bình Dương thể hiện không xác định được nguồn gốc phương tiện đồng thời cũng không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng của phòng Cảnh sát hình sự công an tỉnh Bình Dương. Công an thị xã TU đã đăng thông tin tìm chủ phương tiện trên Đài truyền thL thị xã TU trong các ngày 11, 12, 13 tháng 12/2019 nhưng không có kết quả. Bị cáo khai mua lại xe của người đàn ông không rõ lai lịch, khi mua không có hợp đồng mua bán và giấy đăng ký xe. Bị cáo thừa nhận ngày 25/9/2019 sử dụng xe mô tô biển số 53V6 – 1803 để đi mua ma túy của người tên L về sử dụng và bán cho người nghiện ma túy. Đây là phương tiện phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động màu vàng trên màn hình có ghi chữ Vertu bị cáo Tr thừa nhận sử dụng để liên lạc mua ma túy của người tên L và liên lạc bán ma túy cho C, đây là công cụ phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Bá Thành Tr không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá Thành Tr phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá Thành Tr 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/9/2019.

Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo Nguyễn Bá Thành Tr để đảm bảo cho việc thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư được niêm phong bên trong có chứa ma túy theo Kết luận giám định số 725/MT-PC09 ngày 02/10/2019 của Phòng KTHS công an tỉnh Bình Dương; 01 bộ dụng cụ tự chế để sử dụng ma túy đá; 01 hộp nhựa màu xL dương (loại hộp đựng mắt kính).

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 xe mô tô biển số 53V6 – 1803, số máy: HD1P53FMH-Y0093792, số khung: PA110-0081922, xe không bửng, không gương chiếu hậu, không hộp chắn xích; 01 điện thoại di động màu vàng trên màn hình có ghi chữ Vertu.

- Trả lại cho bị cáo giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Bá Thành Tr.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân s thị xã TU).

4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Bá Thành Tr phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:08/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về