Bản án về tội chứa mại dâm số 08/2020/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC THỦY, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 08/2020/HSST NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 07 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2020/HSST ngày 12 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2020/QĐXXST-HS ngày 24/4/2020 đối với bị cáo:

Dư Thị Châm O.Tên thường gọi khác: Không. Sinh ngày 18/8/1966.

Nơi cư trú: thôn S, xã C (nay là xã P), huyện L, tỉnh Hoà Bình.

Nghề nghiệp: Hưu trí; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Đức V (đã chết) và con bà Dư Thị L (đã chết); Chồng: Nguyễn Văn C; Con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 2008.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/12/2019 đến ngày 25/12/2019; Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25/12/2019 đến nay. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Bà Trần Thị Y, sinh năm 1964 (có đơn xin xét xử vắng mặt)

Nơi cư trú: thôn H, xã C, huyện L, tỉnh Hoà Bình

*Người làm chứng:

- Anh Lê Văn V, sinh năm 1986. Vắng mặt

Nơi cư trú: thôn Y, xã T, huyện C, thành phố Hà Nội.

- Anh Hà Văn H, sinh năm 1992. Vắng mặt.

Nơi cư trú: xóm M, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

- Chị Tạ Thị K, sinh năm 1986. Vắng mặt.

Nơi cư trú: xóm T, xã Tức T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 16/12/2019, Lê Văn V, sinh năm 1986, cư trú: thôn Y, xã T, huyện C, Hà Nội và Hà Văn H, sinh năm 1992, cư trú: xóm M, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ đến nhà nghỉ H thuộc thôn H, xã C (nay là xã P), huyện L, tỉnh Hòa Bình gặp Dư Thị Châm O là người trông coi nhà nghỉ (chủ nhà nghỉ là Trần Thị Y đi vắng có nhờ Dư Thị Châm O trông coi), V và O trao đổi thoả thuận việc mua dâm với giá 250.000 đồng/lần/người. V đưa tiền cho O và O gọi Tạ Thị K là gái bán dâm đi bán dâm cho V. K dẫn Văn vào phòng A2 của nhà nghỉ H để quan hệ tình dục (mua bán dâm), trong khi K và V đang quan hệ tình dục thì bị tổ công tác phòng PC02 Công an tỉnh Hoà Bình phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ cá thể số 2518000905 mang tên Trần Thị Y (bản sao);

- 01 (một) vỏ + ruột bao cao sự đã qua sử dụng;

- Số tiền 250.000 (hai trăm năm mươi nghìn) đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Đối với anh Lê Văn V - người mua dâm, hành vi của V không đủ yếu tối cấu thành tội phạm hình sự nên ngày 25/12/2019 phòng PC 02 Công an tỉnh Hòa Bình đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng.

Đối với chị Tạ Thị K - người bán dâm, ngày 25/12/2019 phòng PC02 Công an tỉnh Hòa Bình ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 200.000 đồng.

Đối với bà Trần Thị Y là chủ hộ kinh doanh nhà nghỉ H, việc chứa mại dâm của bị cáo Dư Thị Châm O, bà Y không biết nên Cơ quan công an không có căn cứ để xử lý về hình sự.

Bản Cáo trạng số: 07/CT-VKS ngày 10/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Thủy truy tố Dư Thị Châm O về tội "Chứa mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 327 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Dư Thị Châm O khai nhận toàn bộ diễn biễn vụ án xảy ra ngày 16/12/2019 như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, chồng không có việc làm, con lớn hiện đang chấp hànhán nên bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất và cho bị cáo được hưởng mức án treo để bị cáo có điều kiện chăm sóc gia đình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Thủy tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Dư Thị Châm O về tội danh và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 327, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Dư Thị Châm O mức hình phạt từ 18 tháng đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Chứa mại dâm.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01vỏ + ruột bao cao su đã qua sử dụng.

Áp dụng điểm a khoản 1điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại 01 bản sao giấy phép kinh doanh số 2518000905 mang tên Trần Thị Y cho bà Trần Thị Y.

Áp dụng điểm b khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 250.000 đồng của bị cáo Dư Thị Châm O.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin hội đồng xem xét cho hoàn cảnh của bị cáo cho bị cáo mức án thấp và án treo để bị cáo có điều kiện chăm sóc gia đình sửa chữa lỗi lầm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên, cơ quan điều tra Công an tỉnh Hòa Bình, cơ quan điều tra Công an huyện Lạc Thủy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Thủytrong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện: Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, các tài liệu, đồ vật, chứng cứ đã thu thập được, do đó có đủ cơ sở xác định: Khoảng 19h00 ngày 16/12/2019 Dư Thị Châm O có hành vi sắp xếp cho một đôi nam nữ mua bán dâm với giá 250.000 đồng theo tỷ lệ ăn chia gái bán dâm hưởng 125.000 đồng và Oanh hưởng 125.000 đồng ngay tại phòng A2 nhà nghỉ H mà bị cáo được bà Trần Thị Y giao trông coi quản lý. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh, trật tự trị an trên địa bàn. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc chứa mại dâm là vi phạm pháp luật nhưng do hám lời và coi thường pháp luật nên vẫn cố ý thực hiện. Hành vi bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 điều 327 Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Thuỷ truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Về nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện cần có mức hình phạt tương xứng mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa loại tội phạm này nói chung.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét bị cáo Dư Thị Châm O có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy không cần cách ly bị cáo khỏi xã hội, chỉ cần phạt tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự cũng đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung như đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, chồng không có việc làm, con lớn đang chấp hành án có xác nhận của chính quyền địa phương nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 327 Bộ luật Hình sự.

Đối với Lê Văn V và Tạ Thị K là người mua bán dâm, hành vi của V và K không đủ yếu tố cầu thành tội phạm hình sự, cơ quan cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử phạt hành chính là đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không đề cập.

Đối với bà Trần Thị Y là chủ nhà nghỉ H, bà Y không biết việc bị cáo O sử dụng nhà nghỉ của mình để thực hiện hành vi chứa mại dâm nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý mà xác định bà là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4]. Về xử lý vật chứng:

- 01 vỏ + ruột bao cao su không còn giá trị sử dụng. Áp dụng điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

- 01 bản sao giấy phép đăng ký kinh doanh số 2518000905 mang tên Trần Thị Y. Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bà Trần Thị Y.

- Số tiền 250.000 đồng là tiền do bị cáo O thu lời bất chính. Áp dụng điểm b khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu sung quỹ nhà nước.

[5]. Về án phí : Bị cáo Dư Thị Châm O phải nộp tiền án phí sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Toàán.

[6]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại điều 331, điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 65; điểm a, b khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b, c khoản 2 điều 106; khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về án phí, lệ phí.

1.Tội danh: Tuyên bố bị cáo Dư Thị Châm O phạm tội “Chứa mại dâm”.

2. Về hình phạt: xử phạt bị cáo Dư Thị Châm O 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo,thời gian thử thách là 36 (ba sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. (07/5/2020).

Giao bị cáo Dư Thị Châm O cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện L, tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự hai lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Toà án buộc người được hưởng án treo chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại điều 56 của bộ luật này.

Trường hợp bị cáo O thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

3.Về vật chứng vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01(một) vỏ + ruột bao cao su đã qua sử dụng.

Trả lại 01 bản sao giấy phép đăng ký kinh doanh số 2518000905 mang tên Trần Thị Y cho bà Trần Thị Y.

(Hiện trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an huyện Lạc Thủy và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Thủy, tỉnh Hoà Bình ngày 11/3/2020).

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 250.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) theo ủy nhiệm chi lập ngày 10/3/2020.

3. Về án phí: Bị cáo Dư Thị Châm O phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chứa mại dâm số 08/2020/HSST

Số hiệu:08/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Thủy - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về