Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 08/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 644/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2020/QĐST-HNGĐ ngày 09/3/2020, giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Nguyễn L - sinh năm 1973 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp B1, xã P, Huyện D, tỉnh Tây Ninh.

2/ Bị đơn: Anh Lý M – sinh năm 1968 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp B2, xã P, Huyện D, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn chị Nguyễn L trình bày: Chị và anh M tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1990, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, Huyện D. Cuộc sống chung hạnh phúc đến khoảng năm 2011 (sau khi sinh người con út) thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống, thường xuyên cải vã từ việc chi tiêu trong gia đình, thậm chí anh M còn thường xuyên uống rượu về kiếm chuyện đánh đập, nhục mạ chị. Năm 2017 chị đã nộp đơn xin ly hôn một lần, nhưng Tòa án không chấp nhận yêu cầu của chị để vợ chồng có điều kiện hàn gắn. Tuy nhiên từ đó đến nay, anh M không có thiện chí hàn gắn mà vợ chồng sống ly thân. Xét thấy vợ chồng không thể đoàn tụ chung sống được, nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Lý M; về con chung: chị và anh M có với nhau 03 con chung tên Lý T – sinh ngày 03/6/1991; Lý H, sinh ngày 05/10/1994 và Lý A, sinh ngày 16/3/2010. Cháu T và cháu H đã trưởng thành tự lao động sinh sống được, còn cháu A hiện đang sống với anh M. Khi ly hôn chị yêu cầu được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu A, không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

-Theo lời khai của bị đơn Lý M: Anh thừa nhận lời trình bày của chị L là đúng về thời gian chung sống, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng. Việc anh uống rượu về gây gỗ với chị L là có nhưng cũng có phần lỗi từ chị L đi làm xa, không quan T đến cuộc sống gia đình. Nay anh vẫn còn thương vợ, con nên không đồng ý ly hôn với chị L.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu phát biểu quan điểm: Xét thấy Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Xét thấy đời sống vợ chồng của chị L và anh M đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay mà không thể hòa giải hàn gắn được, nên mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L; con chung: Cháu T, cháu H đã trưởng thành các đương sự không yêu cầu giải quyết, riêng cháu A có nguyện vọng sống với anh M, nên giao anh M tiếp tục nuôi dưỡng, ghi nhận anh M không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi căn cứ vào tài liệu chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị Nguyễn L yêu cầu ly hôn và giải quyết về con chung với anh Lý M. Căn cứ vào Điều 28, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.

Anh M đã được Tòa án tống đạt hợp lệ đầy đủ các văn bản tố tụng, nhưng anh M cố tình vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh M.

[2] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn L đối với anh Lý M. chị L và anh M chung sống từ năm 1990 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp. Từ năm 2011 vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do vấn đề thu nhập chi tiêu trong gia đình, nên thường xuyên xảy ra cải vã với nhau, anh M thường xuyên uống rượu về kiếm chuyện nhục mạ chị L. Năm 2017 khi chị L nộp đơn xin ly hôn nhưng Tòa án đã không chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L, nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng hòa giải hàn gắn. Tuy nhiên từ đó đến nay anh M không có thiện chí hòa giải đoàn tụ mà mỗi người sống một nơi. Từ đó cho thấy cuộc sống vợ chồng chị L và anh M không hạnh phúc và mục đính hôn nhân không đạt được. Vì vậy với yêu cầu ly hôn của chị L là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L đối với anh M.

[3] Về con chung: Chị L và anh M có với nhau 03 con chung tên Lý T – sinh ngày 03/6/1991; Lý H, sinh ngày 05/10/1994 và Lý A, sinh ngày 16/3/2010. Cháu T và cháu H đã trưởng thành tự lao động sinh sống được, riêng cháu A hiện đang sống cùng với anh M và có nguyện vọng được sống với anh M. Tại phiên tòa hôm nay chị L đồng ý giao cháu A được tiếp tục chung sống với anh M, nên giao anh M tiếp tục nuôi dưỡng; Việc cấp dưỡng, do anh M không không tham gia phiên tòa, nên không đặt ra xem xét. Chị L được quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn mà không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. chị Nguyễn L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyên Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh, kiểm sát viên tại phiên Tòa phát biểu quan điểm về vụ án là hoàn toàn có căn cứ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1/ Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn L đối với anh Lý M.

Chị Nguyễn L và anh Lý M được ly hôn.

- Về con chung: Giao cháu Lý A, sinh ngày 16/3/2010 cho anh M được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Chị L được quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2/ Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn L phải chịu 300.000 đồng. Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003888 ngày 29/11/2019.

Các đương sự được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh Lý M được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:08/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về