TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 08/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 18 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 319/2019/HNGĐ-ST ngày 04 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phan Thanh T, sinh năm 1981. Địa chỉ: Số 54/21 đường H, tổ 64, Khu 10, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
- Bị đơn: Ông Trần Sang G, sinh năm 1988. Địa chỉ: Số 54/21 đường H, tổ 64, Khu 10, phường Phú C, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn bà Phan Thanh T trình bày:
Bà Phan Thanh T và ông Trần Sang G là vợ chồng, tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 08/05/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông G thường xuyên đi qua đêm và về muộn gây ảnh hưởng đến giấc ngủ của bà T và gia đình bà T. Ngoài ra, ông G còn có mối quan hệ riêng bên ngoài trong một thời gian dài. Do đó, vợ chồng thường xuyên cải vã, không còn quan tâm, chăm sóc nhau, dẫn đến cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, hôn nhân không thể kéo dài. Vì vậy, bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông G.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Kim N, sinh ngày 09/04/2013, khi ly hôn bà T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Kèm theo đơn khởi kiện nguyên đơn đã giao nộp các tài liệu, chứng cứ sau: Chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu và sổ tạm trú, Giấy chứng nhận kết hôn (bản sao), giấy khai sinh cháu Trần Kim N (bản sao).
Bị đơn ông Trần Sang G đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án hợp lệ, nhưng ông G không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của bà T. Quá trình giải quyết, Tòa án đã ra thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định xét xử, quyết định hoãn phiên tòa đã niêm yết hợp lệ cho bị đơn tại nơi cư trú, địa phương và tại trụ sở Tòa án theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, ông G đều vắng mặt.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn bà Phan Thanh T có đơn xin giải quyết vắng mặt.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Từ khi thụ lý vụ án đến trước phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Về phần thủ tục Kiểm sát viên không có kiến nghị khắc phục gì thêm.
Về việc giải quyết vụ án: Yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật: Bà T và ông G kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Nay bà T có đơn xin ly hôn với ông G và có yêu cầu giải quyết về vấn đề con chung. Như vậy, quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Về sự tham gia phiên tòa của các đương sự: Bị đơn ông Trần Sang G đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông G không đến Tòa án để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng không thông báo lý do vắng mặt cho Tòa án biết. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ngày 17/01/2020 nguyên đơn bà Phan Thanh T có đơn xin giải quyết vắng mặt. Căn cứ Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.
[2] Các vấn đề có tranh chấp: Bà T và ông G là vợ chồng, sống chung có đăng ký kết hôn tại UBND phường P, thành phố T, vào ngày 08/05/2013 là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Bà T cho rằng vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông G thường xuyên đi qua đêm và về muộn gây ảnh hưởng đến giấc ngủ của bà T và gia đình. Ngoài ra, ông G còn có mối quan hệ riêng bên ngoài. Do đó, vợ chồng thường xuyên cải vã, dẫn đến không còn quan tâm, chăm sóc nhau, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, hôn nhân không thể kéo dài, nên bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn ông G là có căn cứ, đúng pháp luật theo quy định tại theo Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
[3] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Kim N, sinh ngày 09/04/2013, khi ly hôn bà T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con. Xét, cháu Trần Kim N hiện còn nhỏ, rất cần sự quan tâm, chăm sóc của mẹ. Ông Trần Sang G không đến Tòa án để trình bày ý kiến nên việc giao con chung cho ông G là không thể thực hiện được, bà T cũng có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử giao con Trần Kim N cho mẹ là bà Phan Thanh T chăm sóc nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Từ phân tích trên, xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Tòa chấp nhận.
[5] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Phan Thanh T phải nộp theo quy định của pháp luật.
V các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thanh T về việc "ly hôn, tranh chấp về nuôi con" đối với bị đơn ông Trần Sang G.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thanh T được ly hôn với ông Trần Sang G.
Về con chung: Bà Phan Thanh T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Kim Ngân, sinh ngày 09/04/2013.
Không ai được quyền cản trở ông Trần Sang G trong việc thăm nom, chăm sóc con chung.
Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con sau này khi cần thiết.
Về cấp dưỡng nuôi con: Không đặt ra xem xét do đương sự không yêu cầu. quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải
2. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình: Bà Phan Thanh T phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tạm ứng trước đây theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0041077 ngày 25/11/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.
3. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 18/03/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 08/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về