Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN G, TỈNH ĐIỆN B

BẢN ÁN 08/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 16/7/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 77/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 05/6/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2020/QĐST-DS ngày 29/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị B, sinh năm 1996 Địa chỉ: Bản Nà Sáy T (Nay là bản Nà Sáy T), xã Nà S, huyện Tuần G, tỉnh Điện B, có mặt

 2. Bị đơn: Anh Cà Văn Ph, sinh năm 1995 Địa chỉ: Bản Đông Th, xã Mường Th, huyện Tuần G, tỉnh Điện B.

Anh Ph vắng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 17/02/2020, bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Lò Thị B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Cà Văn Ph lấy nhau và chung sống theo phong tục tập quán từ năm 2015 nhưng đến ngày 07/8/2017 mới tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nà S, huyện Tuần G. Hôn nhân là tự nguyện không ai bị lừa dối, ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị và anh Ph không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung, anh Ph không quan tâm giúp đỡ gia đình, không tu chí làm ăn, cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã khiến hôn nhân giữa chị và Anh Ph không có hạnh phúc. Mặc dù chị đã khuyên bảo nhiều lần song anh Ph vẫn không thay đổi. Cuộc sống gia đình không có hạnh phúc, từ trước khi sinh con từ năm 2017 đến nay chị và anh Ph đã sống ly thân, chị B sống cùng bố mẹ đẻ tại bản Nà S, xã Nà S. Từ đó đến nay không ai quan tâm đến ai nữa, không có quan hệ sinh lý và tình cảm gì. Xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Ph.

Về quan hệ con chung: Anh chị có một con chung là cháu Cà Tùng Q, sinh ngày 12/11/2017, cháu đang ở với chị. Chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Q và không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng. Về điều kiện nuôi con: Chị làm ruộng và làm thuê thu nhập khoảng 7.000.000/tháng, đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung.

Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về: Không có.

Sau khi thụ lý vụ án, do anh Ph thường xuyên không có mặt ở nhà, thời gian đi và về không cố định nên không thể tống đạt trực tiếp cho anh Ph được (theo các biên bản xác minh nơi cư trú tại bản Đông Th, xã Mường Th và tại Công an xã Mường Th ngày 26/02/2020 tại BL 26 và 27), Tòa án đã tiến hành niêm yết Thông báo thụ lý vụ án số 77/TB - TLVA ngày 25/02/2020 tại nơi cư trú của anh Ph, tại Ủy ban nhân dân xã Mường Th và tại trụ sở Tòa án.

Hết thời hạn niêm yết theo quy định tại điều 179 Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS), anh Ph vẫn không có mặt nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện. Ngày 16/4/2020, Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự và đã tiến hành niêm yết công khai thông báo này tại nơi cư trú của anh Ph, tại Ủy ban nhân dân xã Mường Th và tại trụ sở Tòa án song anh Ph vẫn không có mặt tại phiên họp và hòa giải. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và thông báo kết quả phiên họp bằng hình thức niêm yết công khai theo khoản 2 và khoản 3 Điều 179 BLTTDS và lập biên bản về việc không hòa giải được theo luật định, chị B cũng đề nghị Tòa án không mở phiên hòa giải lần thứ 2 nữa mà tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/6/2020 Tòa án nhân dân huyện Tuần G mở phiên tòa xét xử theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 05/6/2020 và niêm yết công khai theo quy định của pháp luật, anh Ph vắng mặt lần thứ nhất không có lý do. Tòa án đã hoãn phiên tòa theo luật định, Tòa án tiến hành niêm yết công khai quyết định hoãn phiên tòa số 04/2020/QĐST – DS ngày 29/6/2020.

Tại phiên tòa ngày 16/7/2020, chị B vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai, anh Ph vắng mặt lần 2 không có lý do.

Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật: Về thẩm quyền và trình tự thủ tục Thẩm phán, thư ký Tòa án và Hội đồng xét xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân chấp nhận cho chị Lò Thị B được ly hôn với anh Cà Văn Ph theo Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình. Về con chung: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình: Chấp nhận việc giao cháu Cà Tùng Q, sinh ngày 12/11/2017 cho chị Lò Thị B chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên, chấp nhận việc chị B không yêu cầu anh Ph phải cấp dưỡng nuôi con. Về quan hệ tài sản: Không có Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị B là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc diễn được miễn án phí, đề nghị HĐXX miễn án phí DSST cho chị B.

Về kiến nghị: Không 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Căn cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo và địa chỉ của các đương sự, Tòa án xác định đây là vụ án: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng dân sự.

[2]. Về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án: Chị Lò Thị B và anh Cà Văn Ph kết hôn ngày 07/8/2017, vì vậy Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[3] Về việc hoãn phiên tòa: Ngày 29/6/2020 Tòa án nhân dân huyện Tuần G đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án song bị đơn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Khoản 1 Điều 227, Điều 233, Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị B và anh Ph lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 07/8/2017 tại Ủy ban nhân dân xã Nà S, huyện Tuần G. Hôn nhân là tự nguyện, không ai bị ép buộc hoặc lừa dối nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống do tính tình không hợp, anh Ph không tu chí làm ăn, không quan tâm đến gia đình nên tình cảm của chị B và anh Ph không còn nữa. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay, từ đó không ai quan tâm đến ai, không có quan hệ sinh lý và tình cảm gì.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các biện pháp xác minh nơi cư trú, xác minh tình trạng hôn nhân, niêm yết công khai các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp cho anh Ph song anh Ph vẫn không có mặt tại Tòa án để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Anh Ph đã không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị B, vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải, vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, đã thể hiện ý thức không chấp hành pháp luật, vi phạm các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo điều 70 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Anh Ph đã tự từ bỏ các quyền của mình. Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo Điều 207 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 27/02/2020 (BL 29) thể hiện về nguyên nhân mâu thuẫn do anh Ph không tu chí làm ăn, không quan tâm đến gia đình, chị B và Anh Ph đã ly thân từ năm 2017, từ đó không ai quan tâm đến ai nữa.

HĐXX xét thấy: Mặc dù anh Ph không có mặt tại Tòa án để thể hiện ý kiến quan điểm của mình về quan hệ hôn nhân, song qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua quá trình Tòa án thu thập chứng cứ xác minh tình trạng hôn nhân, đủ cơ sở khẳng định nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, anh Ph không tu chí làm ăn chăm lo gia đình, không làm đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của người chồng dẫn đến hôn nhân anh chị đã trầm trọng, chị B và anh Ph đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai nữa. Mục đích hôn nhân là vợ chồng gần gũi, thương yêu chăm sóc, quý trọng giúp đỡ lẫn nhau không có, quan hệ hôn nhân đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị B xin ly hôn với anh Ph cần được chấp nhận theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Cà Tùng Q, sinh ngày 12/11/2017, quan điểm chị B xin được nuôi cháu đến tuổi thành niên và có khả năng lao động, chị B không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng. Về điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, chị B ngoài làm ruộng còn đi làm thuê thu nhập ổn định khoảng 7.000.000 đồng/tháng có đủ điều kiện để chăm sóc và nuôi dưỡng con chung thể hiện tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 27/02/2020 có xác nhận của chính quyền địa phương.

HĐXX xét thấy: Qua quá trình giải quyết vụ án, anh Ph đã không lên Tòa án thể hiện quan điểm của mình về con chung. Qua xác minh cho thấy anh Ph là người không không tu chí làm ăn, không quan tâm chăm lo đến gia đình, sẽ không đủ điều kiện để nuôi dưỡng con chung. HĐXX căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của cháu Q, cháu Q chưa đủ 36 tháng tuổi, nguyện vọng và khả năng chăm sóc nuôi dưỡng của chị Ph, căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình: Quyết định chấp nhận ý kiến của chị B giao cháu Cà Tùng Q, sinh ngày 12/11/2017 cho chị B trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên, chấp nhận sự tự nguyện không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con.

[6]Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị B thuộc diện được miễn án phí, HĐXX miễn án phí DSST cho chị Lò Thị B.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình:

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Nguyên đơn chị Lò Thị B được ly hôn với bị đơn anh Cà Văn Ph.

2. Về con chung: Giao cháu Cà Tùng Q, sinh ngày 12/11/2017 cho chị Lò Thị B được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên. Chấp nhận sự tự nguyện, chị B không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về: Không có.

4. Về án phí DSST: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí DSST cho chị Lò Thị B

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lò Thị B được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 16/7/2020; Anh Cà Văn Ph được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

396
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:08/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về