TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 08/2019/HSPT NGÀY 17/01/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 657/2018/TLPT-HS ngày 21/8/2018 đối với bị cáo Lầu Thị D, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 100/2018/HSST ngày 16/07/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.
* Bị cáo có kháng cáo:
Lầu Thị D, sinh năm 1982; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản A Lá, xã LS, huyện MC, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: trồng trọt; dân tộc: Mông; trình độ học vấn: Không biết chữ; con ông Lầu A S và bà Hạng Thị P (đều đã chết); có chồng là Tráng A N và có 02 con (lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2006); chưa có tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giam từ ngày 04/01/2018 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đỗ Văn T, Văn phòng luật sư ĐT, Đoàn Luật sư tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
* Người phiên dịch: Ông Mùa A D1, sinh năm 1998; Công tác tại Công an tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La và Bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Sơn La thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 05 giờ 30 phút ngày 04/01/2018, tại Km95+300 Quốc lộ 43 thuộc địa phận bản Sò Lườn, xã Mường Sơn, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, Tổ Công tác Công an huyện Mộc Châu phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Thị L có hành vi vận chuyển trái phép 06 bánh chất bột màu trắng nghi là Heroine. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng và gửi mẫu vật đi giám định. Đồng thời tiến hành mở rộng điều tra và bắt khẩn cấp đối với Lầu Thị D, Thào Thị D2.
Tại Bản kết luận giám định số 181 ngày 09/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu từ L1 đến L6 đều là chất ma túy, loại chất Heroine. Tổng khối lượng 2.285 gam.
Quá trình điều tra, các bị cáo Lầu Thị D, Nguyễn Thị L, Thào Thị D2 khai nhận: Nguyễn Thị L quen biết Lầu Thị D, D có rủ L đi vận chuyển ma túy và trả công, L đồng ý. Ngày 02/01/2018, D đi chăn trâu ở khu vực giáp biên giới Việt Nam – Lào gặp một người đàn ông tên D3, quốc tịch Lào đặt vấn đề thuê D vận chuyển ma túy đến chợ thị trấn Mộc Châu sẽ có người đến nhận và trả công 6.000.000 đồng, D đồng ý. Trên đường về, D gặp Thào Thị D2 và rủ đi vận chuyển ma túy, nhiệm vụ của D2 là đi trước xem có Bộ đội Biên phòng làm việc thì thông báo cho D, xong việc được trả công 2.000.000 đồng, D2 đồng ý. Sau đó, D gọi điện hẹn L đi vận chuyển ma túy, xong việc sẽ trả công 2.000.000 đồng. Khoảng 04 giờ ngày 04/01/2018, D đi đến điểm hẹn gặp D3 để nhận 06 bánh Heroine và đi đến gần bản Pha Nhên thì gặp D2, D bảo D2 đi trước để xem đường. Khi D đi đến ngã ba rẽ vào bản Pha Nhen thì gặp L đang đứng chờ, D đưa 06 bánh Heroine cho L bảo mang ra cổng chợ thị trấn Mộc Châu giao ma túy, còn D đi về. Khi L đi đến khu vực bản Sò Lườn, xã Mường Sơn, huyện Mộc Châu thì bị bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 100/2018/HSST ngày 16/7/2018, Toà án nhân dân tỉnh Sơn La đã áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt Lầu Thị D tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị L, Thào Thị D2 và quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/7/2018, Lầu Thị D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lầu Thị D giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo của bị cáo Lầu Thị D và có quan điểm như sau: Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Lầu Thị D phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa gia đình bị cáo xuất trình Huân chương kháng chiến hạng 3. Tuy nhiên, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với Lầu Thị D là tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội gây ra, không nặng. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo Lầu Thị D.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Lầu Thị D trình bày: Bị cáo thành khẩn khai báo; là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở khu vực có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế, bản thân bị cáo không biết chữ, tại phiên tòa gia đình bị cáo xuất trình tài liệu gia đình có công với cách mạng, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, chấp nhận kháng cáo, xử phạt bị cáo Lầu Thị D mức án tù chung thân là phù hợp.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, tài liệu, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa và của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Lời khai nhận tội của Lầu Thị D tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của bị cáo Nguyễn Thị L và Thào Thị D2; phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, phù hợp với Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 04/01/2018, tại Km95 + 300 Quốc lộ 43 thuộc địa phận bản Sò Lườn, xã Mường Sơn, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, Tổ Công tác Công an huyện Mộc Châu phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Thị L có hành vi vận chuyển trái phép 06 bánh ma túy, có tổng trọng lượng 2.285 gam Heroine. Quá trình điều tra, Nguyễn Thị L khai nhận được Lầu Thị D thuê vận chuyển số ma túy trên. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lầu Thị D về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lầu Thị D, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy: Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm xác định Lầu Thị D giữ vai trò chính, đồng thời lôi kéo người khác phạm tội. Khi lượng hình đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, là người dân tộc thiểu số, không biết chữ nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Lầu Thị D mức hình phạt tử hình là tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra cho xã hội. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, luật sư bào chữa cho bị cáo xuất trình tài liệu mới, gia đình có công với cách mạng nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, do đó Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo cũng như luận cứ của luật sư bào chữa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mà cần chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Lầu Thị D.
[3] Kháng cáo của bị cáo Lầu Thị D không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH
1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lầu Thị D; giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Lầu Thị D.
- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lầu Thị D tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (17/01/2019) bị cáo Lầu Thị D được quyền làm đơn xin ân giảm án tử hình gửi Chủ tịch nước Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Về án phí: Bị cáo Lầu Thị D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 08/2019/HSPT ngày 17/01/2019 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 08/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về