Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 26/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 08/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 20/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Đinh Thị C, sinh năm: 1990;

Nơi cư trú: thôn M, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình;

Nơi ở hiện nay: thôn Q, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hoá. Vắng mặt.

2. Bị đơn: anh Nguyễn Văn C, sinh năm: 1987;

Nơi cư trú: thôn M, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 10 tháng 02 năm 2019 và bản tự khai, tại các phiên hoà giải, nguyên đơn, chị Đinh Thị C trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn C có quá trình tìm hiểu và đi đến hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q (nay là thị xã B), tỉnh Quảng Bình, vào ngày 10 tháng 5 năm 2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 05 năm thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp, anh C thường xuyên rượu chè, cờ bạc, đánh đập chị. Do không chịu đựng được nên chị đã đưa con về nhà bố mẹ tại Thanh Hóa để ở. Vì vậy, anh chị đã sống ly thân từ tháng 02 năm 2017 cho đến nay, không ai còn quan tâm hay hỏi han gì đến ai. Nay, chị nhận thấy không còn tình cảm gì với anh C nên có nguyện vọng mong muốn được ly hôn với anh C để sớm ổn định cuộc sống của bản thân.

Về con chung, quá trình chung sống chị và anh C có 01 con chung là Nguyễn Thị Cẩm T, sinh ngày 22 tháng 7 năm 2014. Nếu ly hôn chị có nguyện vọng xin được nuôi con và không yêu cầu anh C cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung, quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không nợ gì của ai cũng không ai nợ vợ chồng.

Tại biên bản lấy lời khai của đương sự và phiên họp hoà giải, bị đơn anh Nguyễn Văn C trình bày:

Anh và chị Đinh Thị C có quá trình tìm hiểu và đi đến hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện, đã đăng ký kết hôn vào ngày 10 tháng 5 năm 2012 tại Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện Q(nay là thị xã B), tỉnh Quảng Bình. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được 05 năm thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do thỉnh thoảng anh C có ham chơi, làm vợ không hài lòng nên xảy ra cãi vã và vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nay chị C làm đơn xin ly hôn, thì anh C có nguyện vọng vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con cái, vì anh vẫn còn tình cảm với vợ.

Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung như chị C đã trình bày. Nếu vợ chồng ly hôn thì anh có nguyện vọng xin nuôi con và không yêu cầu chị C cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung, quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không nợ gì của ai cũng không ai nợ vợ chồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã B tham gia phiên toà phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật; nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, bị đơn không chấp hành việc thông báo, triệu tập của Toà án gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án.

- Về sự vắng mặt của nguyên đơn và bị đơn: Nguyên đơn vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn đã được triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy, đề nghị căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

- Về nội dung: Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Đinh Thị được ly hôn anh Nguyễn Văn C; giao con Nguyễn Thị Cẩm T, sinh ngày 22 tháng 7 năm 2014 cho chị C trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Sau khi thụ lý vụ án,Tòa án đã tiến hành gửi thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo phiên hòa giải nhiều lần cho anh C nhưng anh C chỉ có mặt một lần nên việc hòa giải không có kết quả. Ngày 21/3/2019, Toà án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập hai bên đương sự đến tham gia phiên tòa vào ngày 05/4/2019 nhưng anh C vắng mặt không có lý do. Ngày 26/4/2019, Tòa án mở phiên tòa lần hai và tiếp tục triệu tập anh C đến tham gia phiên tòa nhưng anh C vẫn không có mặt. Tòa án đã tiến hành xác minh tại UBND xã Q, nơi cư trú của anh C, chị Hoàng Thị Minh H- cán bộ liên lạc xã Q cho biết: Ủy ban đã nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên tòa ngày 05/4/2019 và ngày 26/4/2019, chị H đã đến tận nhà của anh C để tống đạt các văn bản trên cho anh C nhưng anh C đã đi làm ăn xa không có mặt ở nhà. Vì vậy, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng của Tòa án theo đúng quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về thẩm quyền: Chị Đinh Thị C có đơn yêu cầu xin ly hôn với anh Nguyễn Văn C. Hiện tại anh C đang có hộ khẩu thường trú tại thôn M, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vì vậy, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã B.

- Về sự vắng mặt của đương sự:

+ Đối với nguyên đơn: Chị Đinh Thị C vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị Toà án xử vắng mặt. Vì vậy, cần căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt chị Đinh Thị C.

+ Đối với bị đơn: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng, triệu tập hợp lệ nhưng anh C chỉ có mặt một lần, sau đó không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án. Tại phiên tòa ngày 05/4/2019, Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ nhất nhưng anh C vắng mặt nên Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên toà. Tại phiên tòa ngày 26/4/2019, Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng anh C vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn C.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Đinh Thị C và anh Nguyễn Văn C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nên quan hệ hôn nhân của hai người là hoàn toàn hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc được 05 năm thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp, anh C thường xuyên ham chơi, không quan tâm đến gia đình. Vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay và cũng không quan tâm gì đến nhau nên tình cảm không còn. Quá trình giải quyết vụ án, chị C kiên quyết xin được ly hôn với anh C.

Xét thấy, chị C và anh C sống ly thân đã hơn 02 năm nay, không ai quan tâm đến ai, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Tuy anh C có nguyện vọng mong muốn được đoàn tụ với chị C để xây dựng hạnh phúc nhưng không có thái độ, hành động gì nhằm tác động chị C trở về để vợ chồng chung sống với nhau. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị C, căn cứ khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị C được ly hôn với anh C là phù hợp.

[3] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống chị C và anh C có 01 con chung như anh chị đã trình bày. Nếu ly hôn chị C và anh C đều có nguyện vọng xin được nuôi con và không ai có yêu cầu cấp dưỡng việc nuôi con. Xét thấy cháu Nguyễn Thị Cẩm T hiện đang ở cùng mẹ từ ngày anh chị sống ly thân cho đến nay, đã ổn định cuộc sống và học tập; chị C hiện kinh doanh, buôn bán tại nhà, có thu nhập ổn định, có thể nuôi sống hai mẹ con. Anh C mặc dù có nguyện vọng xin được nuôi con nhưng hiện không có mặt ở nhà. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và Gia đình giao con chung cho chị Chung trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp. Do chị C không yêu cầu anh C cấp dưỡng tiền nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Quá trình giải quyết vụ án chị C, anh C trình bày không có tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Chung nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, khoản 1 và khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn chị Đinh Thị C và bị đơn anh Nguyễn Văn C 2. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Đinh Thị C, xử cho chị Đinh Thị C được ly hôn với anh Nguyễn Văn C.

3. Về quan hệ con chung: Xử giao con chung là Nguyễn Thị Cẩm T, sinh ngày 22 tháng 7 năm 2014 cho chị Đinh Thị C được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Anh C không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, do chị C không có yêu cầu. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

4. Về quan hệ tài sản chung: Không xem xét.

5. Về án phí sơ thẩm: Chị Đinh Thị C phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn để sung vào công quỹ Nhà nước nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà chị đã nộp trước đây tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002321 ngày 25 tháng 02 năm 2019. Chị Chung đã nộp đủ tiền án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 26/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:08/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về