Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 25/03/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN - TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 08/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 890/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2018 về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Đặng Thị L, sinh năm 1989

Nơi ĐKHKTT: Tổ 20, Phường. G, Tp. T, tỉnh Thái Nguyên

Tạm trú: Tổ 13, PhườngT, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (Có mặt tại phiên tòa)

* Bị đơn: Anh Trần Lê H, sinh năm 1989

Nơi ĐKHKTT: Tổ 20, Phường G, Tp. T, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và các lời khai tại Tòa án chị Đặng Thị L (nguyên đơn) trình bày: Chị và anh H kết hôn năm 2012 trên cơ sở Hoàn toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND phường G,thành phố T, tỉnh Thái Nguyên và tổ chức cưới hỏi theo nghi thức truyền thống của dân tộc. Sau khi kết hôn anh chị sống hạnh phúc tại Tổ 20, Phường G, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên và có 01 con chung là Trần Công Th, sinh ngày 09/8/2013. Nguyên nhân chị xin ly hôn là do: Trong cuộc sống gia đình xảy ra nhiều mâu thuẫn, anh H không có sự quan tâm chia sẻ với vợ con nhất là sau khi anh H phạm tội phải đi cải tạo tại trại giam Phú Sơn 4 thì mâu thuẫn vợ chồng càng trở nên trầm trọng. Hiện nay mặc dù anh H đã cải tạo xong trở về địa phương nhưng hai vợ chồng vẫn không tìm được tiếng nói chung do bất đồng quan điểm, dẫn đến cãi vã. Hiện nay, hai vợ chồng ly thân, chị và con trai sống cùng bố mẹ đẻ tại Tổ 13, Phường.T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên còn anh H sống cùng mẹ đẻ tại tổ 20, phường G, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên . Chị xác định không còn tình cảm gì với anh H nên yêu cầu Toà án giải quyết cho được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Công Th, sinh ngày 09/8/2013. Chị L đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc và giáo dục con chung là Trần Công Th, sinh ngày 09/8/2013 cho đến khi cháu Th đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Về điều kiện nuôi con: hiện nay chị đang làm nhân viên công ty TNHH ô tô Thái Nguyên, địa chỉ:706-708 đường Dương Tự Minh, tổ 12, phường Quan Triều, thành phố Thái Nguyên,tỉnh Thái Nguyên mức lương là 13.500.000đ/tháng, thời gian làm việc theo giờ hành chính do vậy chị đủ thời gian và điều kiện vật chất để chăm sóc cháu Th được tốt nhất.

Về tài sản chung, công nợ chung: không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài liệu chứng cứ: Chị L đã giao nộp cho Tòa án các tài liệu chứng cứ: Đăng ký kết hôn giữa chị L, anh H (bản chính); Giấy khai sinh con chung (bản sao); Sổ hộ khẩu gia đình chị L, anh H (công chứng); chứng minh nhân dân chị L (công chứng); Xác nhận thu nhập của chị L (bản chính);

Bị đơn anh Trần Lê H tại bản tự khai đề ngày 19/12/2018 trình bày: Anh H và chị L kết hôn trên cơ sở H toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên. Theo suy nghĩ của anh thì hai vợ chồng không có mâu thuẫn gì nghiêm trọng nên anh không chấp nhận ly hôn.

Về con chung: Nếu chị L vẫn cương quyết muốn ly hôn thì anh có nguyện vọng được nuôi cháu Trần Công Th, sinh ngày 09/8/2013 Về tài sản chung, công nợ chung:Anh H không đề nghị Tòa án giải quyết.

Sau khi khi thụ lý vụ án, Toà án đã nhiều lần triệu tập anh H đến để lấy lời khai, hòa giải, cung cấp các tài liệu chứng cứ để chứng minh mức thu nhập, điều kiện, khả năng nuôi con chung nhưng do anh H không hợp tác, đều vắng mặt không có lý do. Vì vậy vụ án phải được đưa ra xét xử ngày hôm nay.

Trong phần tranh tụng, chị L giữ nguyên quan điểm khởi kiện là đề nghị được ly hôn với anh H; đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc và giáo dục con chung là Trần Công Thành, sinh ngày 09/8/2013 cho đến khi cháu Thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, công nợ chung chị không yêu cầu giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành quy định tại điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, Điều 35, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đặng Thị L, cho chị L được ly hôn với anh Trần Lê H. Về con chung giao cháu Trần Công Thành, sinh ngày 09/8/2013 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; anh H được quyền đi lại thăm nom con chung. Việc cấp dưỡng không giải quyết do chị L không yêu cầu. Tài sản chung, công nợ chung không giải quyết trong vụ án này do các bên không có yêu cầu.

Về án phí: Chị L phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1.] Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Trong vụ án này, bị đơn cư trú tại tổ 20, phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp L các văn bản tố tụng cho bị đơn anh Trần Lê H nhưng không tống đạt được do anh H vắng mặt nên Tòa án đã tiến hành niêm yết các thủ tục như: Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn không có mặt. Tòa án cũng đã niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập phiên tòa cho bị đơn nhưng tại phiên tòa lần thứ hai, anh H vẫn vắng mặt nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Trần Lê H.

[2.] Về nội dung: Cuộc hôn nhân giữa chị Đặng Thị L và anh Trần Lê H trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên tỉnh Thái Nguyên là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Về tình trạng hôn nhân, nguyên đơn chị L khai, sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống nhưng thường xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm không có tiếng nói chung, anh H không có sự quan tâm chia sẻ với vợ con, vợ chồng xảy ra cãi vã nhất là sau khi anh H đi cải tạo. Hiện nay anh chị đã ly thân không còn quan tâm, thăm hỏi gì với nhau. Nay, chị xác định mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng được ly hôn để giải phóng cho nhau.

Bản thân anh H mặc dù trong bản tự khai không muốn ly hôn nhưng không hợp tác, vắng mặt tại các phiên hòa giải, không cung cấp các tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Như vậy, có thể khẳng định tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh H đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.Tại phiên tòa chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn nên cho chị L được ly hôn anh H là phù hợp với Điều 51,Điều 56 luật hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2014.

Về con chung: Vợ chồng chị L anh H có 01 con chung là Trần Công Thành, sinh ngày 09/8/2013. Xét yêu cầu của các đương sự thấy, nguyên đơn chị L và anh H đều có nguyện vọng được nuôi con chung là cháu Trần Công Th. Tuy nhiên, xét về điều kiện chăm sóc con chị L hiện đang làm nhân viên viên công ty TNHH ô tô Thái Nguyên, địa chỉ: 706-708 đường Dương Tự Minh, tổ 12, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, mức lương là 13.500.000đ/tháng, thời gian làm việc theo giờ hành chính do vậy chị đủ thời gian và điều kiện vật chất để chăm sóc cháu Thành. Anh H vừa cải tạo trở về sinh sống tại địa phương cùng với mẹ đẻ là bà Lê Thị Hồng nhưng anh H không cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh về điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Do đó, để đảm bảo sự phát triển toàn diện của cháu Thành, giao cháu Trần Công Thành, sinh ngày 09/8/2013 cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Việc cấp dưỡng nuôi con Tòa án không giải quyết do chị L không có yêu cầu. Anh H được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc giáo dục con chun g.Vì lợi ích của con, sau khi ly hôn, chị L và anh H có quyền thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con khi thấy cần thiết.

Về tài sản chung, công nợ chung: Tòa án không giải quyết do hai bên đương sự không có yêu cầu.

Về án phí: Chị Đặng Thị L phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Xét quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về tố tụng và nội dung giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35,điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Đặng Thị L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị L được ly hôn với anh Trần Lê H.

2. Về con chung: Giao con chung là Trần Công Th, sinh ngày 09/8/2013 cho chị Đặng Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Anh H được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Vic cấp dưỡng nuôi con chung: Tòa án không giải quyết vì chị L không có yêu cầu.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Tòa án không giải quyết.

4. Án phí: Chị Đặng Thị L phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí đã nộp sang theo biên lai thu số 0007083 ngày 11/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

5. Về quyền kháng cáo: Chị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 25/03/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:08/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về