Bản án 08/2018/HS-PT ngày 08/01/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 08/2018/HS-PT NGÀY 08/01/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 08 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 836/2018/HSPT ngày 17 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim A do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 83/2018/HSST ngày 15/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện B, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị Kim A, sinh năm 1991; giới tính nữ; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở thôn Nam, thị trấn T, huyện B, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hoá 12/12; dân tộc Kinh; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn Công Nh và bà Nguyễn Thị B; chồng Trương Danh Th và có 03 con (con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh năm 2016); tiền án, tiền sự không; bị cáo tại ngoại - có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có 05 bị cáo khác không có kháng cáo và không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân huyện B thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ ngày 01/7/2018, các bị cáo Đỗ Minh Ph, Nguyễn Văn M, Nguyễn Thị Kim A đến cửa hàng của Trần Thị Ph ở thôn Hưng Đạo – Tây Đằng chơi. Tại đây, các đối tượng rủ nhau đánh bạc ăn tiền. Hình thức đánh bạc là chơi “sâm”; dụng cụ gồm 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài có sẵn ở cửa hàng. Luật chơi được quy ước như sau: Người cầm cái chia cho mỗi người chơi 10 quân bài rồi đánh theo thứ tự theo chiều kim đồng hồ, đến khi nào có người chơi đánh hết 10 quân bài thì thắng, những người còn lại phải trả tiền cho người thắng với số tiền 10.000đ/1 quân bài còn lại. Nếu người nào sâm thì những người còn lại phải trả cho người sâm số tiền 300.000đ, người nào không đánh được quân bài nào (vẫn còn 10 quân) thì phải trả cho người thắng ván đó 200.000đ. Lúc đầu có Đỗ Minh Ph, Nguyễn Văn M, Nguyễn Thị Kim A và Trần Thị Ph tham gia đánh bạc. Một lúc sau Ph không chơi nữa thì có Hoàng Hồng Đ vào thay và tham gia đánh bạc cùng. Sau đó, A hết tiền nên không chơi nữa, lúc này có H đến và thay chỗ của A tham gia đánh bạc cùng. H chơi được 2-3 ván thì không chơi nữa còn lại Ph, M và Đ tiếp tục đánh bạc. Các đối tượng chơi đến khoảng 15 giờ 45 cùng ngày thì bị Công an thị trấn T - Công an huyện B bắt quả tang.

Tang vật thu giữ: 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài, tổng số tiền 9.260.000đ (thu trên chiếu bạc là 3.200.000 và trên người các con bạc là 6.060.000đ).

Khi đánh bạc, Nguyễn Văn M mang theo 3.400.000 lúc bị bắt không rõ thắng hay thua; Đỗ Minh Ph mang theo 3.100.000đ lúc bị bắt không rõ thắng hay thua; Nguyễn Thị Kim A mang theo 1.320.000 và bị thua hết; Hoàng Hồng Đ mang theo 1.250.000đ, lúc bị bắt không rõ thắng hay thua; Trần Thị Ph mang theo 160.000đ khi nghỉ chơi không thắng cũng không thua; Nguyễn Thị H mang theo 120.000đ, lúc nghỉ bị thua còn 90.000đ.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2018/HSST ngày 15/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện B, thành phố Hà Nội đã áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Kim A 35.000.000đ ( Ba mươi năm triệu đồng chẵn ) về tội “Đánh bạc”.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Ngày 26/10/2018, bị cáo Nguyễn Thị Kim A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ lời khai của các bị cáo; lời khai của những người liên quan; biên bản bắt người phạm tội quả tang; tang vật đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo của bị cáo thấy: Bị cáo mang theo số tiền 1.320.000 đồng để đánh bạc; nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt tiền bị cáo với mức 35 triệu đồng là phù hợp. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình đơn xin giảm nhẹ hình phạt có xác nhận của chính quyền địa phương, nội dung thể hiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, gia đình làm ruộng thu nhập thấp, lại phải nuôi 03 con nhỏ. Đây là tình tiết mới giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 nên có cơ sở giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa một phần quyết định của Bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

Kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung: Căn cứ lời khai của các bị cáo; lời khai của những người liên quan; biên bản bắt người phạm tội quả tang; tang vật đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 01/7/2018 các bị cáo Trần Thị Ph, Nguyễn Văn M, Đỗ Minh Ph, Nguyễn Thị Kim A, Hoàng Hồng Đ và Nguyễn Thị H đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh “sâm” ăn tiền, tổng số tiền dùng để đánh bạc là 9.350.000đ. Bị cáo Nguyễn Thị Kim A mang theo 1.320.000 đồng để đánh bạc, khi đánh hết tiền bị cáo không chơi nữa. Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội "Đánh bạc" theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, nếp sống văn minh, văn hóa, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Các bị cáo đều là người có đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, biết rõ việc đánh bạc là vi phạm pháp luật nhưng do hám lợi và ý thức coi thường pháp luật, bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội nhằm hưởng lợi bất chính nên cần có mức hình phạt tương xứng nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Xét bị cáo phạm tội có mức độ, số tiền (9.350.000đ) các bị cáo sử dụng để đánh bạc, trong đó bản thân bị cáo A sử dụng số tiền (1.320.000 đồng) để đánh bạc; sau khi phạm tội, bị cáo đã ra đầu thú; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú. Tại cấp phúc phúc thẩm, bị cáo xuất trình đơn xin giảm nhẹ hình phạt có xác nhận của chính quyền địa phương, nội dung thể hiện gia đình bị cáo rất khó khăn (gia đình làm ruộng, thu nhập thấp lại phải nuôi 3 con nhỏ); đây là tình tiết mới giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo A, Hội đồng xét xử thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm khi xét xử đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền đối với bị cáo là đúng nhưng với mức hình phạt 35.000.000 đồng là có phần nghiêm khắc. Do đó, có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ phân tích trên, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa một phần bản án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về án phí: Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa một phần quyết định của bản án sơ thẩm, xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Kim A 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng chẵn) về tội “Đánh bạc”.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Án phí, Lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Nguyễn Thị Kim A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 08/01/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
  • Tên bản án:
    Bản án 08/2018/HS-PT ngày 08/01/2019 về tội đánh bạc
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    08/2018/HS-PT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    08/01/2019
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2018/HS-PT ngày 08/01/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:08/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về