Bản án 08/2018/HNGĐ-ST ngày 16/04/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 08/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/04/2018 VỀ LY HÔN

Trong ngày 16 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở TAND huyện Phú Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 07/ 2018/ TLST - HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2018 về việc kiện ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/ 2018/ QĐXX - ST ngày 13 tháng 3 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 38/2018/QĐST - DS ngày 28/3/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1988

Bị đơn: Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1980

Đều có HKTT: Thôn L, xã L, huyện X, Thành phố Hà Nội. Chị H có mặt, anh T vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và những lời khai tại Toà, nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày:

- Về hôn nhân: Chị H và anh Nguyễn Đức T tự nguyện kết hôn vào ngày 02/3/2009, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Sau khi cưới, chị về chung sống với anh T ngay tại gia đình anh T. Quan hệ vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, mỗi người có một quan điểm lối sống khác nhau, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, hơn nữa anh T còn có quan hệ ngoại tình. Đầu năm 2015 chị đã bỏ anh T về gia đình nhà đẻ ở thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh Hà Nam và ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, hạnh phúc không có, chị đề nghị được ly hôn anh T.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Khánh L, sinh ngày 31/10/2009 và cháu Nguyễn Tuệ L, sinh ngày 05/01/2014. Hiện nay cả hai con chung đang ở với chị. Ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa giải quyết.

- Về công nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về phía anh Nguyễn Đức T:

Quá trình giải quyết vụ án, anh T không đến Tòa làm việc, nên Tòa án đã tiến hành xác minh tại UBND xã L và làm việc với ông Nguyễn Văn T (Bố đẻ anh T). Qua xác minh cho thấy anh T vẫn có hộ khẩu thường trú tại thôn L, xã L, huyện X, Thành phố Hà Nội, nhưng thời điểm giải quyết vụ án không có mặt tại địa phương, anh T vẫn thường xuyên liên lạc về nhà bố đẻ ở thôn L, xã L, huyện X. Vì vậy, Toà án đã nhờ bố đẻ anh T là ông Nguyễn Văn T tống đạt giúp các văn bản tố tụng của Tòa án gồm: Giấy triệu tập, Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa.

Mặc dù đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ, phía ông Nguyễn Văn T (là bố đẻ anh T) cũng khẳng định đã liên hệ và thông báo lại cho anh T nội dung các văn bản tố tụng của Tòa án về việc giải quyết ly hôn nhưng anh T cố tình không đến Tòa làm việc, nên không rõ quan điểm của anh T.

Tại phiên toà: Chị Phạm Thị H giữ nguyên yêu cầu của mình.

Đại diện VKSND huyện Phú Xuyên tham gia phiên toà phát biểu về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về thủ tục tố tụng của Pháp luật TTDS trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng, bị đơn chưa chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng của mình.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị H; giao cả 02 con chung là cháu Nguyễn Khánh L, sinh ngày 31/10/2009 và cháu Nguyễn Tuệ L, sinh ngày 05/01/2014 cho chị H trực tiếp, nuôi dưỡng, chăm sóc và không xem xét quan hệ tài sản chung vợ chồng do anh T vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về tố tụng: Mặc dù vào thời điểm Tòa án tiến hành giải quyết vụ án, anh T không có mặt tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú là thôn L, xã L, huyện X, Thành phố Hà Nội; song quá trình Tòa án thu thập chứng cứ thông qua xác minh tại UBND xã L và làm việc với ông Nguyễn Văn T (là bố đẻ anh T), cho thấy anh T vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình bố đẻ, Tòa án đã nhiều lần triệu tập và giao các văn bản tố tụng cho anh T thông qua bố anh T là ông T, ông T cũng khẳng định đã giao và thông báo lại cho anh T giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vẫn không thấy anh T đến Tòa làm việc, nên bị coi là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ và cố tình không đến Tòa làm việc; vì vậy, không cần sự có mặt của anh T; Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Về hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân của chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Văn T, tuy là cuộc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện X, Thành phố Hà Nội, thời gian chung sống với nhau được 06 năm, sau đó cả hai không chung sống với nhau nữa, bằng việc chị H bỏ về gia đình nhà đẻ ở từ đầu năm 2015 cho đến nay là một bằng chứng nói lên quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh T tuy không rõ nguyên nhân từ đâu, song đã ẩn chứa những mâu thuẫn, bất đồng hết sức nghiêm trọng.

Do thời gian ly thân đã hơn 03 năm, mọi níu kéo trở nên vô vọng, tình cảm vợ chồng không còn, phía chị H quyết định xin ly hôn anh T. Quá trình tố tụng, việc anh T cố tình không chịu đến tòa làm việc không chỉ thể hiện thái độ không tôn trọng cơ quan tố tụng mà ở một góc độ khác còn thể hiện ý T không mong muốn hòa giải đoàn tụ vợ chồng.

Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T đã thực sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân là hạnh phúc gia đình không đạt được, hôn nhân tồn tại chỉ là hình T, không còn ý nghĩa. Vì vậy, yêu cầu của chị H xin ly hôn anh T là có cơ sở, nên áp dụng các quy định tại các Điều 51, 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 39 của BLDS chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị H, cho chị H được ly hôn với anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Khánh L, sinh ngày 31/10/2009 và cháu Nguyễn Tuệ L, sinh ngày 05/01/2014. Do anh T hiện không có mặt tại địa phương, nên giao cả hai con chung cho chị H nuôi dưỡng và tạm miễn cho anh T việc góp phí tổn nuôi con.

Về tài sản chung: Quá trình giải quyết vụ án do anh T không đến Tòa làm việc, nên chưa có đầy đủ căn cứ xác định được tài sản chung, công nợ chung của vợ chồng. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt nên phần tài sản, công nợ của vợ chồng, cần tách ra chưa xét trong vụ án này và sẽ được giải quyết trong vụ án khác nếu có tranh chấp phát sinh .

Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Điều 39 Bộ luật dân sự; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án

tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Nguyễn Đức T.

2. Về con chung: Giao chị Phạm Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Khánh L, sinh ngày 31/10/2009 và cháu Nguyễn Tuệ L, sinh ngày 05/01/2014. Tạm miễn việc góp phí tổn nuôi con cho T đến khi chị H có yêu cầu hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ vào khoản tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại biên thu tạm ứng án phí số AE/2010/0004932 ngày 18/01/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên. Chị H đã nộp đủ án phí án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2018/HNGĐ-ST ngày 16/04/2018 về ly hôn

Số hiệu:08/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về