Bản án 07/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2021/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:

Huỳnh Văn H, sinh ngày 06/11/2004, tại An Giang; đăng ký HKTT: Ấp HI, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang; nơi cư trú: không có nơi cư trú cố định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Đạo Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Văn G, sinh năm 1981 (Sống) và bà Phan Thị Tuyết N, sinh năm 1984 (Sống); Bị cáo chưa có vợ và con; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: từ nhỏ đến lớn sống cùng gia đình tại Ấp HI, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang, học đến lớp 5 thì nghỉ; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/02/2021, tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Châu Thành. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Huỳnh Văn G, sinh năm 1981 (có mặt) Địa chỉ: Ấp HI, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang.

* Người giám hộ cho bị cáo: ông Nguyễn Tấn T1, Phó Bí thư Đoàn thị trấn A (vắng mặt) * Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hà Quang V, sinh năm 1971 Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh An Giang.

* Bị hại:

Anh Hồ Thanh T, sinh năm 1992 (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp HA, xã P, huyện T, tỉnh An Giang.

Nơi làm việc: ấp HIII, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thật Đ, sinh năm 1977 (vắng mặt) Địa chỉ: Phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

* Người làm chứng:

1. Anh Huỳnh Văn T2, sinh năm 1998 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Ấp HIII, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang.

2. Ông Lê Thanh T3, sinh năm 1977 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Phường M1, thành phố L, tỉnh An Giang.

3. Ông Nguyễn Văn T4, sinh năm 1980 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Ấp HT, xã H, huyện C, An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 25/12/2020, Huỳnh Văn H cùng Huỳnh Văn T2 đi bộ đến vườn của ông Lê Ngọc A tại Ấp HIII, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang để hái dừa. Đến khoảng 13 giờ 27 phút cùng ngày H và T2 đi bộ đến trước cửa cơ sở sản xuất gạch “ĐT” cách vườn của ông A khoảng 70m, H thấy xe mô tô biển số 67B1-074.10 của anh Hồ Thanh T đang dựng trước cửa cơ sở sản xuất gạch “ĐT”, chìa khóa còn gắn trên ổ khóa xe, không có người trông giữ nên H rủ T2 lấy trộm xe bán lấy tiền tiêu xài nhưng 2 không đồng ý. H lén lút đi đến lấy trộm xe mô tô biển số 67B1-074.10 điều khiển xe đến khu vực phường M2, thành phố L, tỉnh An Giang đưa xe cho Huỳnh Thanh Đ và Trần Minh H đem đi bán dùm được 3.000.000 đồng, H cho Đ và H mỗi người 500.000 đồng, số tiền còn lại H tiêu xài các nhân hết. Riêng anh T sau khi phát hiện xe mô tô bị mất trộm đã đến Công an thị trấn A trình báo.

* Vật chứng thu giữ: 01 USB màu xanh có lưu đoạn video ghi hình ảnh đối tượng trộm cắp tài sản (do anh Lê Thanh T3 giao nộp).

* Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 12/KL.ĐG ngày 25/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, kết luận: 01 xe mô tô biển số: 67B1-074.10 nhãn hiệu: Honda, loại: Wave Alpha, màu: đỏ - bạc - đen, số máy: HC12E2907343, số khung: RLHHC1207BY107306, xe đã qua sử dụng, có giá trị 18.500.000 đồng × 50% = 9.250.000 đồng.

Qua xác minh, xe mô tô biển số 67B1-074.10 là của anh Hồ Thanh T mua lại của ông Nguyễn Thật Đ, chưa làm thủ tục sang tên.

Tại Bản cáo trạng số: 07/CT-VKS-HS ngày 24/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Huỳnh Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Bị hại anh Hồ Thanh T trình bày phù hợp như nội dung vụ án nêu trên, yêu cầu xử lý bị cáo theo quy định pháp luật và yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 9.250.000 đồng theo giá trị định giá xe mô tô biển số 67B1-074.10.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thật Đ trình bày: xe mô tô biển số 67B1-074.10 trước đây do anh Đ sở hữu và đứng tên giấy chứng nhận đăng ký xe. Sau đó anh Đ bán lại xe mô tô biển số 67B1-074.10 cho anh Hồ Thanh T với giá là 14.000.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Anh Đ không có yêu cầu gì đối với xe mô tô biển số 67B1-074.10.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo, ông Huỳnh Văn G trình bày: Ông là cha ruột của bị cáo, mẹ ruột của bị cáo là Phan Thị Tuyết N, ông và bà N đã ly hôn, hiện ông không biết bà N đang ở đâu. Bị cáo không sinh sống cùng ông mà bỏ nhà đi đâu, làm gì ông không biết. Tại phiên tòa ông đồng ý cùng bị cáo bồi thường cho bị hại.

Người làm chứng Huỳnh Văn T2, Lê Thanh T3 và Nguyễn Văn T4 trình bày phù hợp với nội dung vụ án đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành thực hành quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa phát biểu lời luận tội đối với bị cáo và giữ nguyên truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Văn H mức án từ 06 tháng đến 01 năm tù về tội “trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam (ngày 04/02/2021);

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 586, 589 Bộ luật Dân sự đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường cho anh Hồ Thanh T số tiền 9.250.000đ (Chín triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng); Ghi nhận sự tự nguyện của ông Huỳnh Văn G cùng bị cáo bồi thường thiệt hại cho anh Hồ Thanh T.

Về xử lý vật chứng: Lưu hồ sơ vụ án 01 USB màu xanh có lưu đoạn video từ 13 giờ 27’34’’ đến 13 giờ 28’43’’ ngày 25/12/2020 ghi hình đối tượng trộm xe mô tô do ông Lê Thanh T3 cung cấp;

Đối với Huỳnh Thanh Đ và Trần Minh H, bị cáo khai đem xe mô tô biển số 67B1-074.10 do bị cáo trộm cắp mà có đưa cho Đ và H đem đi bán, Đ và H không có mặt tại địa phương, chưa làm việc được, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất với bản luận tội của Viện kiểm sát về nội dung và khung hình phát áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử khi xem xét hình phạt có xem xét hoàn cảnh gia đình, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đề nghị hội đồng xét xử áp dụng các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội khi xử phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án 03 tháng tù.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng, tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; bị hại; người đại diện hợp pháp của bị cáo; người giám hộ cho bị cáo; người bào chữa cho bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người giám hộ cho bị cáo ông Nguyễn Tấn T1, Bị hại Hồ Thanh T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thật Đ và những người làm chứng Huỳnh Văn T2, Lê Thanh T3 và Nguyễn Văn T4 được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai và làm rõ các tình tiết vụ án nên việc vắng mặt của người giám hộ cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng không làm ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 292 và khoản 1 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án [2] Về nội dung vụ án:

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Huỳnh Văn H khai nhận vào ngày 25/12/2020 lợi dụng sự mất cảnh giác của anh Hồ Thanh T, bị cáo đã lén lút lấy trộm xe mô tô biển số 67B1-074.10, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave Alpha, màu: đỏ - bạc – đen, số máy: HC12E2907343, số khung: RLHHC1207BY107306. Theo kết luận định giá xe mô tô là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị là 9.250.000 đồng. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tình tiết, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người làm chứng. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Huỳnh Văn H phạm tội “trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo đủ khả năng nhật thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện thái độ xem thường pháp luật, do đó cần áp dụng hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một khoản thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo dưới 18 tuổi; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải; bị cáo thực hiện hành vi phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thuộc thành phần nhân dân lao động nghèo, trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật còn hạn chế do đó Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi quyết định hình phạt.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Hồ Thanh T yêu cầu bồi thường số tiền 9.250.000 đồng. Bị cáo có hành vi lấy trộm gây thiệt hại đến tài sản của anh T nên phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Căn cứ kết luận định giá số 12/KL.ĐG ngày 25/01/2021 xe mô tô biển số 67B1-074.10 có giá trị là 9.250.000 đồng, yêu cầu bồi thường của anh T là có căn cứ nên được hồi đồng xét xử chấp nhận. Khi bị cáo thực hiện hành vi lấy trộm tài sản đã đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi nên căn cứ Điều 586 Bộ luật dân sự, bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại. Trường hợp bị cáo không đủ tài sản để bồi thường thì người đại diện hợp pháp của bị cáo là ông Huỳnh Văn G phải bồi thường phần còn thiếu cho bị hại. Tại phiên tòa ông G đồng ý cùng bị cáo bồi thường cho bị hại, sự tự nguyện này của ông không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không ảnh hưởng quyền lợi của bị cáo và bị hại nên được hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữa là 01 USB màu xanh có lưu đoạn video từ 13 giờ 27’34’’ đến 13 giờ 28’43’’ ngày 25/12/2020 ghi hình đối tượng trộm xe mô tô. Đây là vật chứng ghi lại hành vi phạm tôi của bị cáo nên được lưu hồ sơ vụ án.

[7] Đối với Huỳnh Thanh Đ và Trần Minh H, bị cáo khai đem xe mô tô biển số 67B1-074.10 do bị cáo trộm cắp mà có đưa cho Đ và H đem đi bán, hiện nay Đ và H không có mặt tại địa phương, chưa làm việc được, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[8] Bị cáo Huỳnh Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn H 09 (chín ) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 04/02/2021).

2. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Huỳnh Văn H bồi thường số tiền 9.250.000 đồng cho anh Hồ Thanh T. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Huỳnh Văn G cùng bị cáo bồi thường cho bị hại.

3. Về xử lý vật chứng: Lưu hồ sơ vụ án 01 USB màu xanh có lưu đoạn video từ 13 giờ 27’34’’ đến 13 giờ 28’43’’ ngày 25/12/2020 ghi hình đối tượng trộm xe mô tô do ông Lê Thanh T3 cung cấp.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a, điểm c khoản 1 Điều 23, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/ 12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Huỳnh Văn H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 462.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm, tổng cộng là 662.500 (sáu trăm sáu mươi hai ngàn năm trăm đồng).

5. Về quyền kháng cáo : Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (23/4/2021). Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản bán được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:07/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về