Bản án 07/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 21 tháng 01 năm 2021 tại Phòng xử án hình sự, trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 121/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê T P; sinh ngày 04/12/1996, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: xxx Hòa Bình, Phường x, Quận 11, TP Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm công; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê T D và bà Trần T Tr Q; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; bị bắt tạm giam từ ngày 27/9/2020; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 25 phút ngày 27/9/2020, Tổ tuần tra kiểm soát của Đội Cảnh sát giao thông trật tự Công an Quận 11 trên đường tuần tra phát hiện đối tượng Lê T P đang điều khiển xe mô tô biển số 59N2 - 673.92 lưu thông trên đường, có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Đối tượng Lê T P không chấp hành mà tăng ga bỏ chạy đến trước số nhà x Lê Thị Bạch Cát, Phường x, Quận 11, thì tự té ngã và bị tổ tuần tra truy đuổi kịp, bắt giữ. Qua kiểm tra, Tổ tuần tra phát hiện trong túi quần trước bên phải của đối tượng Lê T P có 01 gói nylon bên trong có 04 viên nén màu cam nghi là ma túy nên đưa người và vật chứng về trụ sở Công an Phường 11, Quận 11, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. (BL 18-19) Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của đối tượng Lê T P, tại số nhà 50/3/10M Hòa Bình, Phường 5, Quận 11; kết quả không phát hiện, thu giữ đồ vật gì liên quan đến ma túy. (BL 41-42) Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã phối hợp với Bệnh viện Quận 11 tiến hành xét nghiệm chất ma túy đối với đối tượng Lê T P qua nước tiểu vào ngày 28/9/2020. Kết quả xét nghiệm y khoa ngày 28/9/2020 của đối tượng Lê T P dương tính với ma túy tổng hợp Amphetamine. (BL 69-70) Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã tiến hành trưng cầu giám định 04 viên nén màu cam có trong 01 gói nylon thu giữ của bị can Lê T P. Tại Bản kết luận giám định số 1670/KLGĐ-H ngày 06/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: "04 viên nén màu cam được ký hiệu mẫu m cần giám định (đã nêu ở mục II.1) đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 1,4155g (một phẩy bốn một năm năm gam), loại MDMA." (BL 50) Tại Cơ quan điều tra, bị can Lê T P khai nhận: Bị can P nghiện ma túy từ tháng 2 năm 2020. Bị can không sử dụng ma túy thường xuyên. Thỉnh thoảng bị can P có đi chơi với bạn bè quen biết ngoài xã hội (không rõ lai lịch) và những người này cho bị can P ma túy để sử dụng. Đối với 01 gói nylon chứa 04 viên nén màu cam khi Công an phát hiện thu giữ là ma túy của bị can P do bị can mua vào ngày 27/9/2020, với giá 1.000.000 đồng; bị can cất giữ nhằm mục đích để sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì đã bị Công an phát hiện bắt giữ. Bị can P khai mua gói ma túy trên của một người nam không rõ lai lịch tại khu vực quận Tân Bình. Khi mua ma túy, bị can P dùng điện thoại hiệu Nokia liên lạc với người bán để hỏi mua ma túy; người này hẹn bị can P đến một con hẻm nhỏ trên đường Âu Cơ thuộc quận Tân Bình để giao ma túy; sau khi mua ma túy xong thì bị can P đã xóa số liên lạc và không nhớ số điện thoại của đối tượng bán ma túy. (BL 26-34) Cơ quan điều tra đưa bị can P đi xác định địa điểm nơi mua ma túy và xác định người đã bán ma túy cho bị can P. Qua làm việc, bị can P xác định địa điểm nơi mua ma túy là tại bên hông nhà số xxx Âu Cơ, Phường x, quận Tân Bình; còn về người đã bán ma túy thì bị can không xác định được. (BL: 38) Vật chứng vụ án: (BL: 43) - 01 gói niêm phong ghi vụ số 1670 là ma túy còn lại sau giám định, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, là điện thoại do bị can P dùng để liên lạc mua ma túy.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen, là tài sản cá nhân của bị can P, không có liên quan đến ma túy.

- 01 xe mô tô Honda Lead, màu xanh, biển số 59N2 - 673.92, số khung: RLHJF4510FY591095, số máy: JF45E- 0629589. Bị can P khai là xe của bà Nguyễn T K L, là mẹ ruột của bạn gái của bị can P. Vào tối ngày 27/9/2020, bị can P đã mượn chiếc xe trên của bà L để đi mua đồ ăn, trên đường về thì bị công an kiểm tra bắt giữ. Theo Kết luận giám định số 5163/KLGĐ-X(Đ6) ngày 20/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định số khung, số máy của chiếc xe trên không thay đổi. Qua xác minh, xe mô tô Honda Lead, màu xanh, biển số 59N2 - 673.92 và số khung, số máy trên, do bà Nguyễn T K L (sinh năm 1967; hộ khẩu thường trú: xx Lê Đại Hành, Phường x, Quận 11) là chủ sở hữu. Vào tối ngày 27/9/2020, bị can P đã mượn chiếc xe trên của bà L để đi mua đồ ăn, bà L không biết bị can P sử dụng xe trên đi mua ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã trả lại chiếc xe trên cho bà Nguyễn T K L. (24-25; 53-62) Tại Bản cáo trạng số 01/CT-VKSQ11 ngày 28/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị can Lê T P tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê T P có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; đồng thời, bị cáo khai bổ sung là bị cáo mua số ma túy trên giúp cho đối tượng tên Hiếu (bị cáo không biết họ tên và nhà của Hiếu ở đâu vì quen tại một quán bar) và cất giữ số ma túy trên để mang trả cho đối tượng Hiếu.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù; đề nghị xử lý vật chứng như sau: Tịch thu tiêu hủy vật chứng là số ma túy còn lại sau giám định; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen; trả lại cho bị cáo đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào lúc 21 giờ 25 phút ngày 27/9/2020, tại trước nhà số x Lê Thị Bạch Cát, Phường x, Quận 11, bị cáo Lê T P đã có hành vi cất giữ trong túi quần phía trước bên phải một gói nylon chứa bốn viên nén màu cam là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 1,4155g (một phẩy bốn một năm năm gam), loại MDMA.

Bị cáo Lê T P khai nhận sử dụng và nghiện chất ma túy từ tháng 2 năm 2020. Lời khai này phù hợp với kết quả xét nghiệm chất ma túy qua nước tiểu của bị cáo do Bệnh viện Quận 11 thực hiện ngày 28/9/2020.

Bị cáo Lê T P khai là mua ma túy giúp cho người bạn tên Hiếu và cất giữ ma túy nhằm mục để giao trả lại cho tên Hiếu; tuy nhiên, do bị cáo không xác định được lai lịch của đối tượng Hiếu; Cơ quan Cảnh sát điều tra không cung cấp được chứng cứ khác để chứng minh mục đích khác của bị cáo trong việc cất giữ ma túy; do đó, Hội đồng xét xử xác định bị cáo cất giấu ma túy nhằm mục đích để sử dụng.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, biết rõ ma túy là chất gây nghiện mang tính độc hại cao bị Nhà nước cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển. Song do nghiện ma túy và muốn thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất gây nghiện, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội, chống lại chủ trương bài trừ tệ nạn ma túy của Nhà nước. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng trị và giáo dục bị cáo, đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo tàng trữ chất ma túy là loại MDMA, có khối lượng 1,4155g (một phẩy bốn một năm năm gam) nên thuộc trường hợp phạm tội quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. [4] Về xử lý vật chứng:

Đối với vật chứng là một gói được niêm phong ghi số vụ 1670 có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra, bên trong có ma túy còn lại sau khi giám định là vật cấm tàng trữ. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tịch thu, tiêu hủy.

Đối với vật chứng là một điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, là điện thoại do bị cáo P dùng để liên lạc mua ma túy, là phương tiện dùng để phạm tội. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử giải quyết tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với vật chứng là một điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen, là tài sản cá nhân của bị cáo P, không có liên quan đến hành vi phạm tội. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử giải quyết trả lại cho bị cáo.

Đối với vật chứng là một xe mô tô Honda Lead, màu xanh, biển số 59N2 - 673.92, số khung: RLHJF4510FY591095, số máy: JF45E- 0629589. Qua xác minh, chiếc xe trên do bà Nguyễn T K L (sinh năm 1967; hộ khẩu thường trú: xx Lê Đại Hành, Phường x, Quận 11) là chủ sở hữu. Vào tối ngày 27/9/2020, bị cáo P đã mượn chiếc xe trên của bà L để đi mua đồ ăn, bà L không biết bị cáo P sử dụng xe trên đi mua ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã trả lại chiếc xe trên cho bà Nguyễn T K L. Hội đồng xét xử xét thấy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã xử lý vật chứng đúng quy định của pháp luật nên không giải quyết lại.

[5] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Lê T P, điều tra viên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 được phân công điều tra, kiểm sát giải quyết vụ án đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên. Do đó, có cơ sở để xác định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về xem xét vai trò, trách nhiệm của các đối tượng có liên quan trong vụ án: Đối với đối tượng là nam thanh niên đã có hành vi bán chất ma túy cho bị cáo Lê T P tại khu vực bên hông nhà số xxx Âu Cơ, Phường x, quận Tân Bình; do chưa xác định được lai lịch của đối tượng nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ; khi điều tra, truy xét được sẽ xử lý sau.

Đối với đối tượng Hiếu mà bị cáo khai là người bạn quen biết tại quán bar và mua giúp ma túy cho đối tượng Hiếu; do không có cơ sở xác định lai lịch của đối tượng Hiếu để xem xét xử lý nên Hội đồng xét xử quyết định không hoàn trả hồ sơ để yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 tiến hành điều tra bổ sung.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 50; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Lê T P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê T P 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/9/2020.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu tiêu hủy một gói được niêm phong ghi số vụ 1670, bên trong có ma túy còn lại sau khi giám định (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 140/ĐCSMT ngày 06/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước một điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 121/ĐCSMT ngày 12/10/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).

Trả lại cho bị cáo Lê T P một điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 121/ĐCSMT ngày 12/10/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về