Bản án 07/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại Sân vân động xã T thuộc ấp 3A, xã T, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 214/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 254/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Ngọc L, sinh năm: 1968 tại tỉnh B; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố Ph, phường Gi, thị xã Tr, tỉnh T; nghề nghiệp: Xe ôm; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Ngọc M, sinh năm: 1941 và bà Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1946; bị cáo có vợ tên Trịnh Kim Ph, sinh năm: 1971, có 03 con, lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền án: Không; tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 30/01/1999 bị Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Đ xử phạt 20 (Hai mươi) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đến ngày 05/8/1999 chấp hành án xong, L đã đóng án phí.

- Ngày 30/01/2007 bị Tòa án nhân dân Thành phố H xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 24/4/2011 chấp hành án xong. L đã đóng án phí, tiền phạt bổ sung đầy đủ.

Bị cáo bị bắt tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 26/5/2020 cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 26/5/2020, Trần Xuân H thuê L chở H đến nhà bạn tại xã T, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh thì L đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 54V2-7497 chở Hảo đi. Khi đi đến khu vực cầu Cổ C thuộc ấp 11A, xã T, huyện C thì L bị Công an huyện Củ Chi yêu cầu dừng xe, phát hiện, bắt quả tang L đang tàng trữ 11 đoạn ống nhựa chứa chất ma túy bao gồm: 03 đoạn ống nhựa chứa chất ma túy cất giấu trong túi áo bên trái phía trước đang mặc, 01 đoạn ống nhựa chứa chất ma túy cất giấu cốp xe và 07 đoạn ống nhựa chứa chất ma túy cất giấu trong hộc chứa đồ phía trước bên trái của xe mô tô biển số 54V2-7497. Tại cơ quan điều tra, Huỳnh Ngọc L khai nhận số chất ma túy trên do người tên Tý A không rõ lai lịch giao cho bị cáo bán cho người nghiện mỗi tép 100.000đ, Tý A trả công cho bị cáo 20.000đ/tép, bị cáo đã bán ma túy cho H 03 lần vào các ngày 21/5/2020, 23/5/2020 và 25/5/2020.

Tại Kết luận giám định số 896/KLGĐ-H ngày 03/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Bột màu trắng trong 11 đoạn ống nhựa được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Huỳnh Ngọc L và hình dấu Công an xã T, huyện Củ Chi gửi đến giám định đều là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4300g, loại heroin.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 gói niêm phong mang số vụ 896/2020 có chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra;

- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 2.000.000đ;

- 01 điện thoại di động hiệu Sony màu trắng, số imei: 357442080912283;

- 01 xe mô tô biển số 54V2-7497, số khung: RLCN5P1108Y009526, số máy: 5P11-009526;

Tại bản Cáo trạng số 206/CT-VKS ngày 11/11/2020, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị can Huỳnh Ngọc L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, bị cáo Huỳnh Ngọc L thừa nhận hành vi phạm tội và khai rằng: Bị cáo làm nghề chạy xe ôm tại khu vực ngã tư A, tháng 5/2020 bị cáo quen người tên Tý A, do hoàn cảnh gia đình khó khăn, chạy xe ôm ít khách, tiền sửa xe tốn kém nên khi Tý A đưa chất ma túy cho bị cáo bán cho người nghiện mỗi tép với giá 100.000đ, bị cáo nhận lời, mỗi tép bán được Tý A cho bị cáo 20.000đ, bị cáo đã bán cho người nghiện tên Trần Xuân H 03 lần vào các ngày 21/5/2020, 23/5/2020 và 25/5/2020 tại khu vực cầu vượt A, Quận X, Thành phố H, tiền công bán ma túy được 60.000đ. Ngày 26/5/2020, H đến khu vực cầu vượt A thuê bị cáo chở đến nhà bạn ở xã T, huyện C. Khi đến khu vực cầu Cổ C thì bị Công an huyện Củ Chi kiểm tra phát hiện bị cáo đang tàng trữ 11 đoạn ống hút nhựa chứa chất ma túy.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi giữ quyền công tố phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 251, Điều 38 và Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc L mức án từ 08 (Tám) năm đến 09 (Chín) năm tù.

- Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại Điều 32 và Khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử xử lý như sau:

+ 01 gói niêm phong mang số vụ 896/2020 có chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra đề nghị tịch thu tiêu hủy;

+ Trả lại cho bị cáo L số tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là 2.000.000đ và 01 điện thoại di động hiệu Sony màu trắng vì đây là tài sản riêng của bị cáo, không sử dụng vào việc phạm tội;

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô biển số 54V2-7497, số khung: RLCN5P1108Y009526, số máy: 5P11-009526, đây là phương tiện bị cáo dùng để cất giấu ma túy, bị cáo xác định bị cáo mua xe vào đầu năm 2017 của một người tên H, bị cáo không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể với giá 3.000.000đ. Qua xác minh chiếc xe biển số 54V2-7497 là loại xe gắn máy hiệu Yamaha do ông Bùi Duy B, sinh năm 1954, hộ khẩu thường trú tại số 7 đường Lê Hoàng Ph, Phường X, quận G, Thành phố H đứng tên sở hữu, trong quá trình điều tra ông B xác định chiếc xe trên ông mua vào năm 2008, khoảng năm 2010 ông bán lại cho người khác, vì thời gian đã lâu nên ông không nhớ rõ bán cho ai và bán với giá bao nhiêu, ông không có ý kiến gì về chiếc xe này.

Bị cáo Huỳnh Ngọc L không tranh luận, không tự bào chữa.

Bị cáo Huỳnh Ngọc L nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi bán ma túy của mình là sai trái, làm ảnh hưởng đến vợ con, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bị cáo mới tái phạm, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh; điều luật áp dụng; tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Bị cáo Huỳnh Ngọc L có hành vi tàng trữ 11 đoạn ống hút nhựa bên trong có chứa chất bột màu trắng là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4300g, loại heroin nhằm mục đích mua bán, ngoài ra bị cáo đã bán cho người nghiện tên Trần Xuân H 03 lần. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi truy tố bị cáo Huỳnh Ngọc L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

nh vi của bị cáo L là nguy hiểm, với phương thức lợi dụng công việc là tài xế xe ôm để bán trái phép chất ma túy nhằm tránh bị phát hiện. Hành vi của bị cáo chẳng những đã trực tiếp xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về trật tự quản lý hành chính, lĩnh vực quản lý dược liệu, dược phẩm độc hại mà còn gây mất trật tự an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt của mọi người. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức rõ rằng chất ma túy là mặt hàng Nhà nước cấm tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là phạm pháp, là tiếp tay cho các phần tử xấu gây nguy hại cho xã hội nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên đi đến hành động phạm tội nhằm thỏa mãn mục đích cá nhân của bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý bị cáo bằng một hình phạt nghiêm khắc là cần thiết.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa. Do vậy, Hội đồng xét xử xét cần áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp quy định pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử xét không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về vật chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong mang số vụ 896/2020 là đối tượng phạm tội nên xét tịch thu tiêu hủy;

- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2.000.000đ và 01 điện thoại di động hiệu Sony màu trắng, Imei: 357442080912283 không liên quan đến việc phạm tội, tại phiên tòa bị cáo xin được nhận lại số tài sản trên nên xét trả lại cho bị cáo;

- 01 xe mô tô biển số 54V2-7497, số khung: RLCN5P1108Y009526, số máy: 5P11-009526, đây là phương tiện bị cáo cất giấu ma túy để bán nên xét tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[7] Về các vấn đề khác:

Trong vụ án này theo bị cáo khai còn có người tên Tý A là người đưa chất ma túy cho bị cáo bán hiện chưa xác minh được nhân thân, lai lịch nên chưa làm việc được, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xét. Riêng đối tượng Trần Xuân H không đồng phạm với L, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi giao H cho Công an xã T, huyện Củ Chi xử lý, không truy cứu trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử không xét.

[8] Về nghĩa vụ chịu án phí:

Buộc bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Ngọc L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2015.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc L 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/5/2020.

2. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong mang số vụ 896/2020, có chữ ký niêm phong của Cán bộ điều tra và Giám định viên;

- Trả lại cho bị cáo Huỳnh Ngọc L số tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là 2.000.000đ và 01 điện thoại di động hiệu Sony màu trắng, Imei 1:

357442080912283 đã qua sử dụng;

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 xe mô tô biển số 54V2-7497, số khung: RLCN5P1108Y009526, số máy: 5P11-009526.

Các vật chứng nêu trên được liệt kê tại Lệnh nhập kho vật chứng số 122/LNK ngày 02/7/2020 (bút lục số 67) và Phiếu nhập kho vật chứng số 122/PNK ngày 02/7/2020 (bút lục số 68) của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Củ Chi.

3. Căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật phí và lệ phí năm 2015, Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo Huỳnh Ngọc L phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

4. Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về